Bày tỏ quan điểm trước việc một bộ phận giáo viên (GV) nghỉ việc, chuyển việc, ông Đặng Tự Ân, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học (Bộ GD&ĐT), Giám đốc Quỹ Hỗ trợ đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam, đã đưa ra các giải pháp trên quan điểm cá nhân.
Lương thấp mà nhiều áp lực
- Câu chuyện GV nghỉ việc, chuyển việc được nhắc đến nhiều trong thời gian gần đây. Theo ông, những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng này?
- Năm 2022, cả nước có trên 16 nghìn GV bỏ việc, bình quân cứ khoảng 100 GV thì có 1 người ra khỏi ngành. Tình trạng nghỉ việc, chuyển việc của GV do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, chúng ta có thể đưa ra 2 nhóm nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, lương thấp không đủ sống, chưa tạo được động lực thu hút GV dạy giỏi. Theo Tổng cục Thống kê, lương bình quân hằng tháng của GV mầm non, phổ thông và giảng viên ĐH (năm 2020) là 7,05 triệu đồng. Tại những khu công nghiệp có sự chênh lệch lương quá lớn giữa GV và công nhân lao động. Lương GV mầm non mới ra trường chỉ trên dưới 3,5 triệu đồng/tháng, trong khi lương một công nhân làm việc cùng khu lại được 7 - 8 triệu đồng. Cùng địa bàn, cùng phải chi phí sinh hoạt như nhau, nhưng GV có thu nhập thấp chỉ bằng một nửa ngành nghề lao động khác. Những GV giỏi, có trình độ đào tạo đặc thù như tin học, ngoại ngữ cũng vì lương thấp mà xin chuyển sang khối trường tư thục hoặc nghề khác có lương cao gấp 3 - 4 lần mức lương GV đang hưởng.
Ông Đặng Tự Ân. |
Trong khuyến cáo của UNESCO cho rằng, mức lương hay chế độ đãi ngộ của Nhà nước với GV là thể hiện sự nâng tầm vị thế nhà giáo, thước đo của đánh giá giữa những người lao động với nhau, mức tín nhiệm của giáo chức với xã hội.
Mức lương thấp khiến GV bỏ nghề, mặc dù họ đang có uy tín, thậm chí ở trình độ nghệ thuật dạy học điêu luyện. Một số địa phương có quan tâm tới người tài như giáo sư, tiến sĩ hay thạc sĩ bằng cách trả lương cao gấp nhiều lần GV giỏi lâu năm trong ngành. Tuy nhiên, nghề dạy học cần sự trải nghiệm nghề nhiều hơn so với người có trình độ đào tạo cao, sau đại học. Với quan điểm này cũng không thể thu hút động viên GV giỏi đến và ở lại với nghề dạy học.
Thứ hai, áp lực của công việc, môi trường làm việc ít thân thiện, chưa động viên, giữ chân nhà giáo. Áp lực của GV, thông thường có áp lực vô hình từ bản thân trong ngành tạo ra và từ ngoài ngành, ngoài xã hội tác động vào.
Đồng lương chưa tương xứng với lao động nghề giáo nên GV mong có thời gian, thêm cơ hội tìm việc làm để tăng thêm thu nhập. Nhiều cơ sở giáo dục không nhận thức được tính cấp thiết và thấu hiểu những khó khăn của đồng nghiệp để mạnh dạn thay đổi cách quản lý cũ kỹ, hình thức, kém hiệu quả của mình.
Khi tiếp xúc với một cô giáo dạy học cấp THCS ở Hà Nội, tôi được nghe lời chia sẻ buồn bã: Mỗi tuần cô dạy 17 tiết, hưởng lương tháng 3, 4 triệu đồng nhưng hằng ngày phải làm việc trung bình 17 giờ. GV trước khi lên lớp phải chuẩn bị bài giảng là cần thiết, nhưng nếu không có cách quản lý khoa học thì sẽ thành gánh nặng dồn lên vai.
Họ phải mất nhiều thời gian soạn kế hoạch dạy học, họp tổ, họp nhóm, họp trường, hoàn thiện hồ sơ, sổ sách, chuẩn bị cho các hội thi, dự giờ, chấm bài, ghi chép đánh giá chất lượng học sinh (HS)… Đây là những công việc đặc thù của GV, khó có thể đong đếm mà chỉ hiệu trưởng các trường mới thấy được thực trạng vất vả này. Vì thế, áp lực cho GV phổ biến ở nhiều nơi chứ không riêng một trường hay địa phương nào.
Chúng ta đang triển khai Chương trình GDPT 2018. Phải nói rằng chương trình mới khó, nhưng chúng ta không vì thế mà bỏ hay lùi công cuộc đổi mới giáo dục. Đồng nghĩa áp lực chuyên môn lên GV là đương nhiên và không thể né tránh. Dạy học phát triển năng lực HS phải trên nền phương thức dạy học cũ, dạy theo chuẩn kiến thức, kỹ năng và thái độ. Đó là thêm việc. Nhiều bộ SGK để GV lựa chọn xây dựng cho giáo án dạy học của mình. Đó là điểm mới.
Và còn nhiều điểm mới khác biệt nữa trong hoạt động dạy học, như dạy theo môn học mới, hoạt động mới hay chuyên đề mới (dạy tích hợp, trải nghiệm, dạy tin học, khoa học công nghệ, dạy học tự chọn cấp THPT, học cho đạt các chứng chỉ…). Những GV lớn tuổi hay bảo thủ thì đổi mới giáo dục sẽ trở thành thách thức lớn và chắc chắn sẽ làm tăng áp lực không nhỏ. Có đại biểu Quốc hội đã chia sẻ: Áp lực khối lượng công việc của GV hiện nay đã tăng thêm gấp 2 - 3 lần so với trước đây, nhưng lương vẫn ở mức cũ.
Ông Đặng Tự Ân (giữa) và các chuyên gia, nhà giáo tại buổi tập huấn cho hiệu trưởng về trường học hạnh phúc. Ảnh: NVCC |
Thời đại ngày nay là kỷ nguyên CN 4.0, thời đại của chuyển đổi số, số hóa và trí tuệ nhân tạo... Giáo dục không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu và đội ngũ nhà giáo phải thêm thời gian đầu tư cho chuyển đổi giáo dục, thêm tri thức và thêm tư duy sáng tạo. Như vậy, GV thêm áp lực là theo kịp, thích ứng thời kỳ văn minh mới của nhân loại.
Cả nước hiện thiếu hàng chục nghìn GV - thách thức lớn. HS vẫn ổn định và duy trì số lượng, trường lớp vẫn vậy, chưa nói có xu hướng tăng cục bộ từng năm, ở từng vùng. Ai phải lo dạy học và bằng cách nào cho sự hoạt động bình thường của các nhà trường? Không thể để có trò mà không có thầy. Không ai khác, chính là các nhà giáo đang bám trụ ở vùng cao, hay âm thầm lặng lẽ làm việc ở vùng thuận lợi. Họ phải đôn đáo dạy tăng tiết, tăng ca và có cả dạy học liên trường để HS không bị mất bài và đảm bảo chương trình dạy học theo quy định. Tất nhiên, GV có thêm phụ cấp nhưng chắc chắn không thể tương xứng sức lực bỏ ra.
Ngoài ra, còn áp lực từ ngoài ngành, trước hết từ phía phụ huynh HS. Bây giờ, phụ huynh kỳ vọng rất nhiều vào con cái, ai cũng mong muốn con em mình trong học tập phải được đánh giá khá, giỏi. Mặt trái của thị trường khiến phụ huynh tự coi mình là khách hàng, thượng đế. Sự can thiệp của phụ huynh vào nhà trường, GV rất nhiều và bằng nhiều kênh khác nhau.
Không chỉ có vậy, GV còn phải chịu áp lực từ mạng xã hội. Bất cứ một hành vi nào của GV trong nhà trường, có khi chỉ là phạt HS vì không tuân thủ đúng quy định của trường, lớp cũng bị phụ huynh đưa lên mạng xã hội. Thực tế, có những GV bỏ ngành chỉ vì nghiêm khắc với HS và bị phụ huynh phản ứng không tốt, thêu dệt câu chuyện rồi đưa lên mạng xã hội và gặp phải chuyện không hay. Có ý kiến cho rằng, nghề giáo được xếp vào một trong những nghề nguy hiểm. Nhiều GV cảm thấy không đủ sức để chịu đựng những sức ép đó và đã rời khỏi môi trường giáo dục.
Ảnh minh họa: ITN |
Những hệ lụy
- Tình trạng GV nghỉ việc gây ra những hệ lụy gì, theo ông?
- Chắc chắn để lại hệ lụy cho ngành và sự phát triển cũng như sự tăng trưởng kinh tế đất nước.
Trước mắt tạo ra góc nhìn trong xã hội: Sư phạm là loại hình lao động, tuy danh giá nhưng đang trở nên kém hấp dẫn người lao động. Giá trị nghề nghiệp của nhà giáo bị sụt giảm. Lòng yêu nghề, mến trẻ và lý tưởng chọn nghề, theo nghề nghiệp ở một bộ phận không nhỏ nhà giáo bị nhạt phai. Nghề sư phạm ngày càng trở thành một công việc mưu sinh hơn là nơi để lớp trẻ thực hiện lý tưởng và cống hiến cho tương lai, cho sự nghiệp trăm năm trồng người.
GV đang bị nhiều sức ép trong công việc. Việc quản lý và đổi mới giáo dục ít nhiều có ảnh hưởng, tác động không mong muốn đến đội ngũ nhà giáo. Xu hướng dịch chuyển lao động, chảy máu chất xám từ lĩnh vực sư phạm sang các ngành nghề khác, đặc biệt lĩnh vực giáo dục công sang giáo dục tư. Đây đều là những dấu hiệu đáng báo động cho các nhà quản lý và ngành Giáo dục.
Về lâu dài, nó có thể gây mất cân đối về nhân lực trong một lĩnh vực quan trọng và có số lượng viên chức đông tới hơn 1,4 triệu người. Khi đội ngũ nhà giáo vừa thiếu, lại bị hao hụt thêm hằng năm sẽ gây nhiều khó khăn cho các nhà trường trong việc tổ chức hoạt động giáo dục. Điều này sẽ tiếp tục gây sức ép lên các nhà giáo đang làm việc. Tìm mọi cách để huy động trẻ tới trường, duy trì sĩ số lớp học, nhưng lại thiếu thầy, thiếu trường lớp tương ứng!
Khi vị thế nghề nghiệp của nhà giáo không được coi trọng đúng mức, lý tưởng nghề nghiệp bị phai nhạt, những sức ép nghề nghiệp trong nghề sư phạm quá ngưỡng chịu đựng… có thể dẫn đến xu hướng thích ứng tiêu cực. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lao động sư phạm và có thể gây ra một số hành động không tích cực trong giáo dục.
Nguy hiểm hơn, xu hướng nghỉ việc, chuyển việc ở đội ngũ nhà giáo có thể sẽ không dừng lại và trở nên trầm trọng hơn, trở thành trào lưu, gây ra phản ứng dây chuyền, ảnh hưởng tiêu cực đến đội ngũ nhà giáo đang cống hiến, đặc biệt những thầy, cô có kinh nghiệm, năng lực chuyên môn tốt.
Gốc rễ vẫn là chính sách tiền lương
- Dù số GV nghỉ việc chưa đến mức báo động như ngành Y tế hay một số ngành nghề khác, nhưng theo ông, ngay từ bây giờ cần có các giải pháp để ngăn chặn trước khi nó trở thành một hiện tượng phổ biến?
- Gốc rễ vấn đề GV bỏ nghề, bỏ việc vẫn là chính sách tiền lương của GV và cả khối công chức, viên chức hành chính sự nghiệp. Phụ cấp đứng lớp hay tăng lương cơ bản cũng chỉ là các quyết định mang ý nghĩa tình thế, giải quyết khó khăn tức thời chưa phải là căn cơ lâu dài, ổn định. Chúng ta mong mỏi Nhà nước cần có cách làm đột phá, tiến hành cải cách tiền lương, theo hướng ưu tiên lương GV có tính đặc thù, cao nhất trong khối hành chính sự nghiệp. GV sống được bằng lương, bằng nghề dạy học là mục tiêu phấn đấu lâu dài, nhưng phải thực hiện ngay từng bước.
Đồng thời, các nhà quản lý giáo dục cấp Bộ và địa phương phải ngồi lại để rà soát công tác quản lý GV, theo hướng quản trị nhà trường. Hãy luôn suy nghĩ để cắt giảm hơn những cuộc thi hình thức, sổ sách hành chính, nhiệm vụ kiêm nhiệm không thật cần thiết.
Hãy mạnh dạn bỏ đi tất cả những thủ tục hành chính làm GV mệt mỏi, để các thầy cô được thực sự “tự do” và dành thời gian cho công tác giảng dạy, giáo dục. Ứng dụng mạnh mẽ tin học quản lý văn phòng, quản lý nhân sự và chuyên môn. Chỉ cần biết sử dụng nhóm Zalo chúng ta cũng đã bỏ được nhiều cuộc họp không cần thiết, hoặc tương tác được thường xuyên kịp thời giữa GV và phụ huynh.
Cần xây dựng cụ thể các hướng dẫn, công cụ để giúp GV thực sự nắm rõ và thực hiện tốt chương trình mới. Toàn xã hội, truyền thông cần nhìn nhận, đánh giá và dành cho thầy cô sự tôn trọng nghề nghiệp ở mức độ cần thiết. Ghi nhận cũng là cách để họ có động lực cống hiến, yêu nghề.
Cuối cùng, bản thân mỗi nhà giáo, nhà trường cần làm việc và sống hạnh phúc, thay đổi tư duy giáo dục cho GV trong giai đoạn mới, ứng phó những thách thức, khó khăn mới. Có nhận thức đúng những thách thức nghề nghiệp, có kỹ năng ứng phó, giúp nhà giáo mới làm tốt công tác giáo dục trong bối cảnh hiện nay.
Ngoài ra, khi xây dựng và triển khai chính sách tiền lương, cần coi trọng cả hai cấp vĩ mô và vi mô: Cấp vĩ mô là quan trọng, mở hướng, tạo nền, còn cấp vi mô quyết định thành công và được phép linh hoạt sáng tạo trong quá trình thực hiện.
- Xin cảm ơn ông!
“Năm 2019, Value Champion - trang phân tích tài chính nổi tiếng có trụ sở tại Singapore đã công bố nghiên cứu 16 quốc gia, so sánh với GDP mỗi nước thuộc châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ và Pháp, cho kết quả: Lương của GV Việt Nam đứng cuối cùng trong số các quốc gia này. GV Việt Nam bỏ nghề vì lương thấp; nhưng các nước GV có mức lương cao hơn nhiều so với GV của chúng ta, họ cũng bỏ nghề. Lý do đơn giản bởi chi phí sinh hoạt đắt đỏ, các dịch vụ xã hội cao phi mã hay giá thuê nhà cao ngất ngưởng… khiến GV phải tìm tới phương cách chuyển nghề để tồn tại…”, ông Đặng Tự Ân cho biết.