Trước đó, chính bản thân thầy cũng chưa khi nào nghĩ rằng mình có thể học được hết chương trình phổ thông.
Người thầy “đầu tiên”
Sinh ra và lớn lên ở “cái nôi” của đồng bào Mông – xã Sính Phình, huyện Tủa Chùa (tỉnh Điện Biên), từng đi qua nhiều miền đất, song ông Vì A Hao vẫn chọn quê hương núi đá tai mèo để gắn bó.
Gần 70 năm cuộc đời, ông Hao có ngót nghét 40 năm làm thầy giáo vùng cao. Cho đến khi tuổi đã xế chiều, ông vẫn chưa thôi bước lên bục giảng. Trong một căn nhà đơn sơ nằm cuối con phố Thành Công, thị trấn Tủa Chùa, tấm bảng đen vẫn in những dòng phấn trắng, với nét chữ “rồng bay”...
Tự tay gỡ tấm ảnh đen trắng cũ kỹ được treo trang trọng trên tường nhà, ông bảo: “Đây là ảnh tôi cùng 6 người bạn là thế hệ học sinh cấp 2 đầu tiên của huyện Tủa Chùa, chụp chung với thầy Vũ Ðình Sơn (giáo viên chủ nhiệm)”.
Những năm tháng không chỉ khó khăn chung của cả nước, mà ở miền đất “chó ăn đá, gà ăn sỏi” này, người được đi học, mà lại học đến cấp 2 như ông Hao thật sự rất hiếm. Cái sự “hiếm” ấy thể hiện ở minh chứng, cả một trường cấp 2 chỉ có một lớp học và cũng chỉ vẻn vẹn 7 học sinh.
Năm 1975 (sau khi kết thúc chương trình học phổ thông), cũng như 6 người bạn của mình, ông Hao trở về nhà với công việc lên nương “chọc lỗ, tra hạt”. Hồi đó nương xa lắm, đi bộ cả ngày mới tới, vậy mà thầy giáo Sơn đã lần đường, tìm về tận nơi chỉ để vận động ông Hao tiếp tục theo học cao hơn.
Giữa thực tại là cuộc sống “cơm áo” và ước mơ trở thành thầy giáo, câu nói của thầy Sơn rằng: “Em có năng lực, đừng để phí. Hãy rèn luyện và hoàn thiện nó để mang về thay đổi quê hương” như chiếc “đòn bẩy” giúp ông Hao quyết tâm bỏ lại mảnh nương đang mùa tra hạt, xuống thị trấn làm hồ sơ, bắt đầu hành trình chinh phục ước mơ.
Thời gian sau đó, thầy Sơn tiếp tục dìu dắt, hướng dẫn, đồng thời giúp đỡ ông Hao cho đến khi ông vào học tại Trường Trung học Sư phạm (tiền thân của Trường Cao đẳng Sư phạm Ðiện Biên ngày nay).
“Ngày tôi đi học, đất này còn lạc hậu lắm. Gia đình tôi đói ăn triền miên, nên chưa bao giờ dám nghĩ mình sẽ theo học được hết chương trình phổ thông…”, thầy Hao nghĩ vậy song chính thầy đã trở thành người Mông đầu tiên ở cao nguyên đá Tủa Chùa bước chân vào ngôi trường sư phạm.
Năm 1976, ra trường trở về quê hương, thầy Hao nhận công tác tại Trường Tiểu học Trung Thu (xã Trung Thu, huyện Tủa Chùa). Trải qua nhiều thăng trầm theo những biến cố của cuộc đời riêng, cũng như đổi thay mảnh đất quê hương, thầy đã nhiều lần đi học để hoàn thiện chuyên môn. Thầy cũng trải qua nhiều vị trí từ giáo viên, đến quản lý trong ngành Giáo dục huyện Tủa Chùa.
Thầy Hao đã từng là Phó Hiệu trưởng các Trường Tiểu học Sính Phình, Dân tộc Nội trú, Phó Giám đốc Trung tâm Giáo dục thường xuyên. Khi về nghỉ hưu lại tiếp tục thêm 2 nhiệm kỳ làm Chủ tịch Hội cựu giáo chức huyện, song tâm huyết nhất với thầy lại là những lớp học truyền dạy chữ viết, tiếng nói của người Mông.
Cả đời đi “xóa mù”…
“Chính vì trải qua thời gian làm thầy giáo, nên tôi mới nhận ra thế hệ con cháu người Mông bây giờ không mấy người biết viết chữ của dân tộc mình. Tôi sợ cứ như vậy thì mai một dần. Đến khi người Mông mà “mù chữ” Mông thì đáng buồn lắm!” – thầy Hao trải lòng.
Bằng vốn kiến thức tích lũy sau những năm tháng rong ruổi khắp các bản, làng người Mông cùng việc tham gia các lớp đào tạo, tập huấn trước đó, năm 1992, thầy Hao vừa làm công việc chuyên môn, vừa bắt đầu dạy khóa học chữ viết và tiếng nói Mông đầu tiên cho cán bộ công an huyện. Tiếng lành đồn xa, kể từ đó, ông liên tiếp được mời giảng dạy các lớp học tiếng Mông tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ, giáo viên, học sinh… không chỉ trong huyện Tủa Chùa, mà khắp các tỉnh: Ðiện Biên, Sơn La, Lào Cai…
Người Mông có 3 loại chữ (Mông Trung Quốc, Mông La tinh và Mông Việt Nam do Chính phủ xây dựng năm 1961). Điều đặc biệt ở ông Hao đó là chỉ truyền dạy chữ và tiếng Mông Việt Nam.
“Có nhiều người lớn tuổi vẫn theo học. Tôi rất trân trọng, vì họ còn ý thức và niềm tự hào với truyền thống cốt lõi của dân tộc mình. Nhưng mừng nhất là các cháu học sinh, vì đây là thế hệ tiếp nối…” – ông Hao bộc bạch.
Đó là lý do, trong lớp học của ông luôn có nhiều đối tượng, lứa tuổi tham gia. Song cũng chính vì vậy, việc giảng dạy trở nên khó khăn hơn, bởi mỗi đối tượng thì khả năng tiếp thu lại khác nhau.
“Nhiều người bảo, học chữ Mông rất khó. Lúc mới tiếp cận cháu cũng thấy vậy. Nhưng thầy Hao có phương pháp dạy rất dễ hiểu, dễ nhớ. Những điều học sinh chưa rõ, thầy đều giải thích luôn nên không còn bị mắc nữa” – em Vì Thị Nụ một học sinh của thầy Hao chia sẻ.
“Học gì cũng có phương pháp, và phải tìm ra được nguyên tắc để học. Ở đây, viết, đọc và nói tiếng Mông không khó, nguyên tắc ở chỗ: Chữ cái theo phiên âm la tinh, nghĩa đều nằm ở từ mới, nên điều quan trọng là phải học thuộc chữ cái, học thuộc các từ mới thì mới hiểu được nghĩa. Khi đã hiểu nghĩa thì việc học không còn gì khó khăn” – ông Hao nói.
Mãi sau này dù có nhiều thế hệ học trò của ông cũng trở thành giáo viên truyền dạy tiếng Mông, song vẫn không ai vượt qua được “cái bóng” của thầy Hao.
Ông Hao cho biết, cho đến giờ vẫn nhiều nơi gọi điện mời đi dạy, nhưng năm vừa rồi dịch bệnh căng thẳng nên đều phải hoãn. Thêm đó, bản thân ông cũng cảm thấy sức khỏe đã giảm sút trông thấy nên không đi xa được nữa. Thay vào đó, ông mở lớp học miễn phí cho bọn trẻ, người dân ở các xã trong huyện, rồi sưu tầm, ghi chép, biên soạn lại các tài liệu cổ liên quan đến văn hóa dân tộc Mông.
Đó là lý do mỗi ngày trôi qua, ngoài thấy ông đứng trên bục giảng miệt mài với bụi phấn, người ta vẫn bắt gặp cái dáng vẻ “lom khom” đi khắp các bản làng người mông, tìm đến những người già, người trẻ, trò chuyện. Xong rồi ông lại cặm cụi ghi ghi, chép chép... Nhiều áng thơ ca, phong tục của đồng bào đã được ông biên soạn, đóng quyển cẩn thận.
“Hiện nay, tôi đang ấp ủ hai dự định. Một là thành lập câu lạc bộ những người yêu văn hóa Mông – nơi không chỉ tập hợp, mà sẽ phổ biến, truyền dạy và gìn giữ cho “ngọn lửa” văn hóa Mông sống mãi. Việc này tôi đang thực hiện rồi. Hiện, câu lạc bộ đã thu hút được 35 thành viên ở các xã: Sính Phình, Trung Thu tham gia.
Hai là xuất bản một cuốn sách bằng cả chữ Mông và phiên dịch sang chữ Việt về văn hóa Mông, trên cơ sở những gì đã ghi chép được lâu nay. Tôi coi nó như một món quà để lại cho con cháu sau này. Nhưng đây là việc khó và một mình tôi không thể làm được…!”, ông Hao bộc bạch.