Nghị quyết 29 thúc đẩy thay đổi lớn khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế

0:00 / 0:00
0:00

GD&TĐ - Ngày 31/10 tại Hà Nội, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội thảo khoa học tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT.

Nghị quyết 29 thúc đẩy thay đổi lớn khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế .
Nghị quyết 29 thúc đẩy thay đổi lớn khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế .

Hội thảo tổng kết nội dung về khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế - do Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc chủ trì với sự tham dự của đại diện Ban Tuyên giáo Trung ương; Ủy ban Văn hoá, Giáo dục của Quốc hội; Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đại diện các bộ, ngành, các tổ chức, các cơ sở giáo dục đại học, các sở giáo dục và đào tạo; các chuyên gia, và các nhà khoa học.

Nâng cao vị thế quốc tế của giáo dục Việt Nam

Báo cáo kết quả về hợp tác và hội nhập quốc tế trong GD&ĐT, ông Phạm Quang Hưng - Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế, Bộ GD&ĐT cho biết: Sau 10 năm hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào thành công chung của ngành GD. Giúp nâng cao chất lượng, vị thế và uy tín của GD&ĐT Việt Nam, không chỉ ở tầm khu vực mà cả bình diện quốc tế.

Bộ GD&ĐT đã chủ động và chủ trì đàm phán, thực hiện ký kết 161 Điều ước và Thỏa thuận quốc tế và thúc đẩy quan hệ với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ; tham gia một số cơ chế tiểu vùng, khu vực và liên khu vực ASEAN, ASEM, APEC,... góp phần nâng tầm hợp tác quốc tế trong GD&ĐT.

Nhiều ghi nhớ, thỏa thuận hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, trao đổi sinh viên và giảng viên được ký kết giữa các cơ sở giáo dục của Việt Nam với nước ngoài, đã tạo điều kiện mở rộng và phát triển các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế của giáo dục Việt Nam. Việt Nam luôn là thành viên tích cực và chủ động tham gia vào các hoạt động của các tổ chức quốc tế và khu vực và tham gia các tuyên bố chung, các cam kết quốc tế.

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc phát biểu tại Hội thảo.

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc phát biểu tại Hội thảo.

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Việt Nam đã thực hiện nhiệm kỳ làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á năm 2013-2014 với chủ đề "Học tập suốt đời: Chính sách và triển vọng"; Chủ tịch hợp tác giáo dục của ASEAN năm 2022-2023 với chủ đề “Nỗ lực chung nhằm tái định hình việc học và tăng cường khả năng thích ứng của hệ thống giáo dục khu vực ASEAN và hơn thế nữa trong bối cảnh mới”.

Dấu ấn 10 năm ghi dấu nhiều kết quả nổi bật về đào tạo nguồn nhân lực ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước và nguồn ngoài ngân sách. Hiện có khoảng gần 200.000 du học sinh Việt Nam đi học nước ngoài ở bậc trung học phổ thông, đại học và sau đại học. Số lượng lưu học sinh nước ngoài đang học tập tại Việt Nam cũng tăng lên trong 10 năm qua, với số lượng hiện khoảng 22.000 người, trong đó lưu học sinh diện Hiệp định gần 4000 người.

Thực hiện Nghị quyết 29, các cơ sở GDĐH Việt Nam đã chủ động nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài và các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên và hợp tác nghiên cứu. Với các giải pháp tương đối toàn diện và đồng bộ, hoạt động đầu tư vào giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến dài sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29.

Khắc phục khó khăn về nguồn lực

Nghị quyết 29 đã hiện thực hóa mục tiêu “Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ”, ông Trịnh Xuân Hiếu - Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ GD&ĐT nhấn mạnh và cho biết: Nghị quyết đã tạo hành lang pháp lý và ban hành chính sách góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) trong các cơ sở GD đại học, đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ của nước ta đã phát triển cả về số lượng và chất lượng.

Đặc biệt, trong giai đoạn 2015-2019, số lượng nhân lực nghiên cứu và phát triển của Việt Nam tăng mạnh, từ 167.746 lên 185.436 người, tỷ lệ tăng đạt 10,5%. Trong đó, số lượng nhân lực nghiên cứu và phát triển hoạt động trong các cơ sở giáo dục đại học tăng từ 77.841 người (năm 2015) lên 96.400 người (năm 2019).

Tiềm lực khoa học, công nghệ của các cơ sở GDĐH được thể hiện thông qua số lượng và chất lượng, cũng như loại hình các tổ chức khoa học, công nghệ. Tính đến năm 2021, cả nước đã hình thành được 47 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao và cơ sở ươm tạo khác, 43 vườn ươm, trung tâm, câu lạc bộ hỗ trợ khởi nghiệp, 636 doanh nghiệp khoa học, công nghệ được thành lập trong các cơ sở GDĐH trên cả nước.

Tham luận của các đại biểu.

Tham luận của các đại biểu.

Trong bối cảnh cân đối chi ngân sách nhà nước còn khó khăn, chi thường xuyên cho hoạt động khoa học công nghệ trong giai đoạn 2021-2023 đạt trung bình 0,64% tổng chi ngân sách nhà nước. Chi ngân sách cho hoạt động khoa học, công nghệ của các cơ sở GDĐH mới chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng chi ngân sách sự nghiệp khoa học, công nghệ của cả nước. Các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ GD&ĐT cũng được đầu tư thấp hơn so với một số bộ, ngành khác.

Mặc dù kinh phí được đầu tư cho nghiên cứu hàng năm rất hạn chế và có xu hướng giảm, nhưng với tiềm lực, năng lực và động lực tự nghiên cứu, số lượng và chất lượng các công bố trên các tạp chí trong và ngoài nước đều tăng mạnh, đặc biệt đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng của các công bố theo chất lượng của các tạp chí.

Năm 2021, các cơ sở giáo dục đại học chiếm tới 95,78% số lượng công bố quốc tế trên Scopus, tương ứng với 17.625 công bố, góp phần đưa xếp hạng của Việt Nam đứng thứ 5 trong khu vực ASEAN, đứng thứ 12 Châu Á và thứ 45 trên thế giới về số lượng công bố quốc tế trên Scopus. Năm 2022 trong số 10 tổ chức có số lượng công bố trên Scopus cao nhất Việt Nam thì có tới 9 cơ sở GDĐH.

Nguồn lực nhiều, cơ chế tốt sẽ tăng hiệu quả

Phát biểu kết luận, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc ghi nhận, đánh giá cao các ý kiến trao đổi, góp ý của đại diện các Bộ, ngành, cơ sở GDĐH, các nhà khoa học tại Hội thảo. Các ý kiến đều đánh giá cao dự thảo báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 nội dung về khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế, trong đó nhấn mạnh những chuyển biến mạnh mẽ về hoạt động nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo qua 10 năm.

TS Trương Tiến Tùng, nguyên hiệu trưởng Trường ĐH Mở Hà Nội phát biểu ý kiến.

TS Trương Tiến Tùng, nguyên hiệu trưởng Trường ĐH Mở Hà Nội phát biểu ý kiến.

Theo Thứ trưởng, trong điều kiện đất nước còn khó khăn, đầu tư nguồn lực cho khoa học, công nghệ, hợp tác quốc tế có hạn, song so với cách đây 10 năm hoạt động khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế đã có sự thay đổi lớn. Những kết quả này là sự khích lệ, là niềm tin để trong tương lai, nếu có nguồn lực đầu tư lớn hơn, cơ chế tốt hơn, các kết quả sẽ nhiều hơn nữa.

Với các ý kiến thảo luận tại Hội thảo tập trung vào một số nhóm vấn đề về chủ trương, chính sách chung; về việc hoàn thiện thể chế; tăng cường nguồn lực đầu tư; quan tâm tới yếu tố con người, thu hút, đào tạo và trọng dụng nhân tài; vấn đề về chuyên môn, học thuật; vấn đề về quản lý nhà nước… - Thứ trưởng đề nghị các đơn vị đầu mối xây dựng báo cáo ghi nhận đầy đủ và xem xét tiếp thu phù hợp.

Thứ trưởng cũng mong muốn, các ban, bộ, ngành trung ương, các cơ sở giáo dục đại học, các Sở GD&ĐT, các chuyên gia, nhà khoa học… sau Hội thảo này sẽ tiếp tục tham gia góp ý kiến bằng văn bản hoặc trao đổi để Bộ GD&ĐT tiếp tục hoàn thiện báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT.

Theo kết quả xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021 của USNEWS , Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020. Năm 2022, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp thứ 48/132 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng.

Đại diện các cơ sở GDĐH, nhà khoa học đã có những trao đổi về định hướng trong giai đoạn tiếp theo. Trong đó, nhấn mạnh tới việc cần tăng cường nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo hướng có trọng tâm, trọng điểm. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật tạo thuận lợi cho nghiên cứu khoa học.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ