Nghè Nguyệt Viên: Mạch nguồn hiếu học chảy mãi

GD&TĐ - Truyền thuyết dân gian địa phương và người dân ngày nay đều tin, Thành hoàng làng Nguyệt Viên là công chúa Mai Hoa - con gái vua.

Di tích lịch sử nghè Nguyệt Viên còn thắp lên ngọn lửa hiếu học cho hậu thế.
Di tích lịch sử nghè Nguyệt Viên còn thắp lên ngọn lửa hiếu học cho hậu thế.

Trải qua hơn 400 năm, nghè Nguyệt Viên nơi thờ Thành hoàng làng và các vị tiến sĩ của làng khoa bảng Nguyệt Viên (Nguyệt Viên, Thanh Hóa) vẫn lưu giữ nét kiến trúc cổ kính, độc đáo. Đây cũng là công trình nhằm tôn vinh sự học của ngôi làng được ca tụng là “làng khoa bảng” trong lịch sử phong kiến nước nhà.

Truyền thuyết về nữ Thành hoàng

Nghè Nguyệt Viên được xây dựng từ năm 1593. Khác với nhiều di tích, người được thờ ở nghè Nguyệt Viên lại là một nữ Thành hoàng làng - với bài vị ghi rõ “Chương vĩ dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần” (Danh hiệu phong tặng cho một vị thần có công lớn, đã phù trợ nhà vua và đất nước phục hưng trở lại, được phong là thần bậc cao nhất).

Theo ông Cao Xuân Mạc, Trưởng Ban quản lý di tích làng Nguyệt Viên, tuy không có tài liệu nào ghi rõ ràng về vị Thành hoàng làng Nguyệt Viên, song truyền thuyết dân gian địa phương và người dân ngày nay đều tin, Thành hoàng làng Nguyệt Viên là công chúa Mai Hoa - con gái vua.

nghe-nguyet-vien-mach-nguon-hieu-hoc-chay-mai-4.jpg
Danh bia 11 tiến sĩ làng Nguyệt Viên.

Vì cảm phục tài cao học rộng của ông Nghè Đờn ở xã Hoằng Thịnh, huyện Hoằng Hóa (cũ) (nay là xã Hoằng Lộc, Thanh Hoá) nên khi ông từ quan về quê, bà đã bí mật tìm theo. Tuy nhiên, giữa đường bị lạc, không thể tìm thấy quê của ông Nghè Đờn. Quá thất vọng, chán chường, bà đã gieo mình xuống sông Mã tự vẫn, thi thể trôi về đến làng Nguyệt Viên và được ông tổ họ Nguyễn làng Nguyệt Viên chôn cất tại Cồn Trạch.

Sau đó, các vị chức sắc trong làng nằm mơ thấy một người con gái hiện ra nói sẽ báo đáp, phù hộ cho dân làng học hành tiến bộ, làm ăn phát đạt. Từ đó, nhân dân làng Nguyệt Viên lấy ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch hàng năm - ngày chôn cất bà làm ngày giỗ và tôn bà làm Thành hoàng làng.

Ông Cao Xuân Mạc cho biết: “Nghè Nguyệt Viên ngoài thờ Thành hoàng làng là công chúa Mai Hoa còn thờ các vị tiến sĩ đỗ đạt khoa cử. Đến nay, có 18 vị tiến sĩ được thờ tại đây. Hiện bên trong di tích nghè vẫn còn tấm bia ghi danh 11 vị tiến sĩ của làng Nguyệt Viên đỗ đạt thời Phong kiến. Mở đầu là tiến sĩ Nguyễn Trật (thời vua Lê Thần Tông) và người cuối cùng của làng, cũng là cuối cùng của cả nước thi đỗ tiến sĩ thời phong kiến là cụ Phó bảng khoa thi Kỷ Mùi 1919 Lê Viết Tạo”.

Như một niềm tự hào về truyền thống khoa bảng, đỗ đạt, ở Nguyệt Viên ngày nay vẫn lưu truyền câu ca: “Nguyệt Viên 18 ông Nghè/ Ông cưỡi ngựa tía, ông che tán vàng”.

Với những gì sử sách ghi lại, di tích lịch sử nghè Nguyệt Viên còn thắp lên ngọn lửa hiếu học cho hậu thế bước tiếp tiền nhân, nỗ lực học tập. Ông Cao Xuân Mạc cho biết, do bản thân từng đảm nhiệm vai trò Chủ tịch hội khuyến học xã, nên nắm rất rõ. Chỉ tính từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, làng Nguyệt Viên đã có hàng trăm người được phong học hàm, học vị giáo sư, tiến sĩ và đỗ thạc sĩ.

“Làng Nguyệt Viên có 27 dòng họ, nhưng nổi danh khắp cả nước về sự thành đạt nhờ con đường học vấn là dòng tộc Lê Viết. Các giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng có những đóng góp to lớn cho khoa học, nghiên cứu, giảng dạy như: Lê Viết Lân, Lê Viết Ly, Lê Viết Bình, Lê Viết Kim Phượng, Lê Viết Khuyến, Lê Viết Dư Khương... Không chỉ vậy, nhiều người hiện đang công tác, giảng dạy tại các trường đại học của nước ngoài”, Trưởng Ban quản lý di tích làng Nguyệt Viên thông tin.

nghe-nguyet-vien-mach-nguon-hieu-hoc-chay-mai-1.jpg
Nghè Nguyệt Viên - nơi thờ Thành hoàng làng và các vị tiến sĩ.
nghe-nguyet-vien-mach-nguon-hieu-hoc-chay-mai-5.jpg
Những họa tiết hoa văn độc đáo tại nghè Nguyệt Viên.

Nét xưa còn lại giữa làng

Căn cứ nội dung khắc trên thượng lương bên trong di tích, nghè Nguyệt Viên được khởi dựng cuối thế kỷ XVI, năm Quý Tỵ, thuộc niên hiệu Quang Hưng triều vua Lê Thế Tông (1593), được trùng tu năm Đinh Hợi niên hiệu Minh Mệnh (1827) và sửa chữa tiếp vào năm Bính Thân niên hiệu Thành Thái (1896). Năm 1996, nghè Nguyệt Viên được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh.

Cũng theo ông Mạc, trước đây, nghè nằm trong khuôn viên có quy mô lớn của làng, ngay phía bên có ngôi chùa và đình làng 9 gian, có giếng nước, chiếc cầu đá cùng nhiều cây cổ thụ quanh năm xanh tốt với cảnh quan rộng rãi, thoáng mát. Tuy nhiên, qua thời gian, các công trình như chùa, đình làng, giếng cổ, cầu đá cổ, cây cổ thụ đều bị dỡ bỏ, để lại duy nhất Nghè này. Đến nay, công trình này nằm trên một diện tích khá khiêm tốn, chỉ chừng 2.500 m2, quy mô kiến trúc cũng không lớn.

Một công trình được xây dựng từ hơn 4 thế kỷ, lại có nhiều nét kiến trúc cổ kính độc đáo khiến không ít nhà nghiên cứu từng về đây phải kinh ngạc. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, di tích nghè Nguyệt Viên hiện nay là “sản phẩm” của lần đại trùng tu thứ nhất (năm 1827) với kiến trúc 1 gian 2 chái, bố cục gần giống hình vuông.

Trong đó, cấu trúc vì kèo khá đặc biệt, được ghi trong cuốn Địa chí Văn hóa Hoằng Hóa, NXB Khoa học Xã hội năm 2000: “Những người thợ xây dựng đã nâng cao và mở rộng giá chiêng ở trên câu đầu (dầm ngang chính đặt trên cùng) thành một tầng lầu thứ hai nhưng không có sàn, tạo cho không gian nội thất rộng rãi.

Phía ngoài mái cũng tạo thành hai lớp, giữa hai lớp có thêm cổ diêm cao với nhiều cửa sổ con làm cho nội thất công trình sáng sủa, thoáng đãng. Loại kiến trúc hai lớp mái này được gọi là ‘trùng diêm’, xuất hiện cuối thế kỷ XVIII (chùa Tây Phương, Hà Nội là ví dụ), đến công trình này thì đã hoàn chỉnh hơn. Nó cao ráo, đơn giản và chắc chắn”.

Như nhiều di tích cùng thời, các mảng chạm khắc, trang trí ở nghè Nguyệt Viên cũng xoay quanh đề tài “tứ linh” quen thuộc. Trong đó, rồng (mắt lồi, mũi sư tử, mồm rộng) được chạm trên các đầu chếnh, một số rường, chạm thành từng đôi chầu Mặt trời trang nghiêm, hoặc đăng đối; phượng (đầu to, mỏ quặp đang ngậm cuốn thư, đuôi seo sau gáy dài, thân nhiều lớp lông và mây xoắn, đuôi kéo dài cuồn cuộn như diềm lá đang cuốn trước gió) được thể hiện trong bố cục khỏe khoắn: toàn bộ thân uốn cong, đầu quay lại nhô cao ra ngoài. Hai con ở đầu góc đăng đối song bố cục, cách thể hiện lại không hoàn toàn giống nhau, bởi vậy tạo sự hấp dẫn người xem.

nghe-nguyet-vien-mach-nguon-hieu-hoc-chay-mai-6.jpg
nghe-nguyet-vien-mach-nguon-hieu-hoc-chay-mai-7.jpg
Hình ảnh lân, rồng được chạm trổ tinh xảo.

Tham quan nghè Nguyệt Viên, người xem cũng nhận ra đề tài “lân” tại đây chiếm số lượng lớn, chạm trên “nghé bẩy, rường đấu, các cốn” với nhiều tư thế: con bơi trên mặt nước, lưng cõng một vòng có hình bát quái của “Hà đồ lạc thư”, con lại trong tư thế nằm ngửa... Kỹ thuật chạm khắc với nhiều lớp tạo nên chiều sâu thu hút. Bên cạnh đó, người nghệ nhân xưa cũng khéo léo kết hợp đường nét, hình khối để vừa đủ đầy chi tiết nhưng vẫn đơn giản tinh tế, không rườm rà rối rắm.

Theo ông Cao Xuân Mạc, các hình ảnh đầu rồng, phượng, lân được khắc vào từng vị trí cố định trên các đầu dư, rường, các góc đầu nối với các cột cái... một cách mềm mại, uyển chuyển nhưng vẫn toát lên được sự sắc sảo, uy nghi. Các cột gỗ lim to vững vàng trên các hòn đá tảng kê chân chắc chắn.

Kiến trúc cầu kỳ đẹp mắt cùng với những đường nét điêu khắc nghệ thuật tinh xảo tạo cho nghè Nguyệt Viên thêm phần linh thiêng, trang trọng vừa thực sự gần gũi, gắn bó với cuộc sống đời thường của người dân trong làng.

Hàng năm, vào mùng 10 tháng hai âm lịch, Lễ hội nghè Nguyệt Viên lại được tổ chức với nhiều hoạt động ý nghĩa. Lễ hội thu hút đông đảo người dân trong vùng bởi các hoạt động mang tính cộng đồng cao, như đua thuyền trên sông Mã, kéo hẹ, tú huần, hát đối...

Từ xưa, cứ vào sáng mùng 1 Tết, những người đỗ đạt trong làng, người theo con đường học hành, khoa cử lại ra nghè dâng hương, đàm đạo. Noi theo truyền thống đó, học sinh sau này, trước mỗi kỳ thi lớn, bên cạnh sự nỗ lực cũng được bố mẹ dẫn ra nghè dâng lễ, cầu xin sự phù trợ hanh thông, may mắn... Lễ hội truyền thống nghè Nguyệt Viên diễn ra vào ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch với nhiều hoạt động, là nơi để mỗi người dân nhớ về nguồn cội, tri ân công đức tiền nhân. Ông Cao Xuân Mạc, Trưởng ban Quản lý di tích làng Nguyệt Viên

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Mô hình 'trường học trong rừng' được ưa chuộng tại Đức.

Gieo mầm từ tuổi thơ

GD&TĐ - Trong bối cảnh khủng hoảng môi trường ngày càng nghiêm trọng, “sống xanh” không còn là lựa chọn cá nhân, mà đã trở thành định hướng phát triển của nhiều quốc gia.

Cô Hạ Thị Trang hướng dẫn cho trẻ hoạt động trên lớp. Ảnh: Đình Tuệ

Không gian sáng tạo trong lớp học

GD&TĐ - Với trẻ mầm non, việc truyền dạy các kỹ năng cần thiết không chỉ thông qua lời nói mà còn bằng hình ảnh trực quan, không gian sáng tạo.