Dù vùng đất học từng rất nổi danh bị quên lãng, nhưng những câu chuyện về các vị đại khoa không bao giờ rơi vào quên lãng.
Lạc Tràng vốn là một xã có từ xa xưa - nay một phần thuộc thành phố Phủ Lý (Hà Nam). Tuy nhiên, sau những biến thiên lịch sử cũng như vô số lần tách nhập, thay đổi tên gọi, đến nay rất ít người ở Phủ Lý còn biết đến một Lạc Tràng nức tiếng khoa danh.
Đến sử sách và nguồn địa chí của Hà Nam cũng ít nhắc tới, cho nên gần như sau những vùi lấp của lịch sử - Lạc Tràng trở thành vùng đất của quên lãng và đầy xa lạ.
Mấy ai nhớ tới Lạc Tràng xưa!
Trong quá khứ, Lạc Tràng từng nổi danh khắp trấn Sơn Nam về sự học, khoa bảng và những tên tuổi trí thức, sánh ngang thậm chí là vượt trội hơn cả làng học Châu Cầu - nay vẫn còn tên gọi trên mảnh đất Phủ Lý cắt ngang đường thiên lý Bắc - Nam.
Trong vùng Sơn Nam xưa, Hà Nam là mảnh đất hiếu học, kết tinh nhiều nhân vật đỗ đạt nức tiếng như: Trình Thuấn Du, Dương Ban Bản, Nguyễn Tông Mạo, An Khí Sử, Trần Văn Bảo, Vu Hoán, Trương Minh Lượng, Nguyễn Kỳ…
Cho đến nay, dù chưa có con số thống kê đầy đủ nhưng các nguồn sử liệu đăng khoa cho biết, Hà Nam có đến gần 60 vị đại khoa, với người đỗ đầu tiên năm 1429 là Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hiếu đến người đỗ cuối cùng vào năm 1910 là cụ Phó bảng Bùi Kỷ.
Trong cái nôi văn hóa Sơn Nam, dù không thật chói lọi như đất học Nam Định, nhưng Hà Nam cũng có những tên tuổi đã làm cho nền khoa cử và sự nghiệp quan trường trở nên đặc sắc. Mỗi nhà khoa bảng là một câu chuyện, một bài học, một tấm gương soi dành cho hậu thế biết trọng sự học, kính tri thức, giữ lễ nghĩa, trung vua ái quốc.

Lạc Tràng được xác định là vùng đất cổ, nơi có đường thiên lý Bắc Nam đi qua, là đất khoa bảng với nhiều dòng họ nổi tiếng như họ Bạch, họ Vũ. Một phần Lạc Tràng nay có thể được xác định thuộc phường Quang Trung của thành phố Phủ Lý, và trở thành một làng; một phần nữa rất có thể là thuộc phường Lam Hạ bên kia sông Châu vốn thuộc huyện Duy Tiên nhưng khoảng 20 năm nay đã nhập về Phủ Lý.
Chứng tích chứng minh thì khó thấy nhưng tên gọi thì dễ gặp chữ “Tràng” trong tên gọi xã Lạc Tràng xưa, đó là thôn Đình Tràng - nơi đặt đền thờ 10 nữ anh hùng dân quân Lam Hạ.
Có thể Đình Tràng từng là một thôn của xã Lạc Tràng, và sau này khi tên xã không còn thì tên thôn vẫn giữ nguyên - như nhiều thôn làng khác trên khắp đất nước vẫn giữ nguyên tên gọi xa xưa. Hơn nữa, trong một số bản chép sử, xã Lạc Tràng ngoài việc được xác định thuộc Phủ Lý, thì có những giai đoạn thuộc Kim Bảng, Duy Tiên.
Ngoài ra, Lạc Tràng xưa còn ba ngôi đình của ba giáp Bắc, Đông, Ngô; chùa Lạc Tràng và đền mẫu Đình Trường. Khu vực Đình Trường xưa là một hòn đảo xanh tươi giữa bốn bề sông nước, ở giữa đảo có một mô đất cao quanh năm hoa thơm trái ngọt.
Tương truyền, thời đó dân cư thưa thớt, nghèo đói và luôn bị dịch bệnh hoành hành. Được mẫu báo mộng, người dân đến đây cầu đều linh ứng nên đã dựng đền thờ để được che chở.
Dù không còn tên gọi Lạc Tràng, cũng ít người tường ranh giới địa lý của Lạc Tràng xưa và nay - song dựa vào ghi chép đăng khoa, người ta có thể thấy có ít nhất 5 vị đại khoa người xã Lạc Tràng đã ghi tên mình vào sách sử, như: Hoàng Thuấn, Phạm Viết Tuấn, Bạch Đông Ôn, Vũ Duyên, Vũ Duy Tuân.
Lấy thanh bạch làm đầu
Cho đến nay, giới khoa học vẫn chưa biết rõ năm sinh và năm mất của Tiến sĩ Hoàng Thuấn, chỉ biết rằng ông là người Lạc Tràng xưa thuộc huyện Kim Bảng, sau lại là thôn Lạc Tràng của xã Lam Hạ (Duy Tiên).
Hoàng Thuấn đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Dậu niên hiệu Thái Hòa 11 (1453) đời vua Lê Nhân Tông. Khoa thi này, có các danh sĩ như Bùi Siêu, Trần Cảnh Mô, Nguyễn Khắc Tân… cùng đỗ hạng đệ tam. Sử sách cho biết, Hoàng Thuấn làm quan đến chức Tham chính.
Tra tìm văn bia khoa thi này tại Văn Miếu Quốc Tử Giám thì không thấy, đến các bản rập cũng không có. Theo giới nghiên cứu lịch sử, hai khoa không dựng bia là khoa thi năm Thái Hòa thứ 11 (1453) - đúng khoa Hoàng Thuấn đỗ Tiến sĩ, và khoa Diên Ninh thứ 5 (1458). Đây là một bí ẩn của lịch sử mà nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Nhà khoa bảng thứ hai của Lạc Tràng là Phạm Viết Tuấn (1631 - 1722) quê xã Lạc Tràng, huyện Kim Bảng. Năm 40 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670), đời vua Lê Huyền Tông. Ông làm quan đến chức Giám sát ngự sử, vì có nhiều lời nói thẳng, nên bị gièm pha, trở thành đắc tội với triều đình. Sau khi mất, lại được phục chức.
Phần chú thích của Viện nghiên cứu Hán Nôm về văn bia đề danh Tiến sĩ cũng ghi Phạm Viết Tuấn quê xã Lạc Tràng, huyện Kim Bảng. Như vậy đã chứng minh, vào thời nhà Lê, Lạc Tràng thuộc về địa giới huyện Kim Bảng.
Vị đại khoa thứ ba của Lạc Tràng là Bạch Đông Ôn (1811 - 1881), tự là Hòe Phủ, quê ở xã Lạc Tràng, Kim Bảng cũ, sau thuộc xã Lam Hạ, Duy Tiên. Bạch Đông Ôn đỗ Hoàng giáp năm 25 niên hiệu Minh Mạng thứ 16 (1835). Trước sau chỉ giữ một chức quan bậc trung, tính tình cương trực, điềm đạm và sống liêm khiết.
Sử cũ kể lại, đời vua Thiệu Trị, khi đang làm quan Ngự sử, Bạch Đông Ôn nhiều lần can gián triều đình, ra sức can ngăn việc đem quân đi lấn chiếm, đề nghị cho bãi binh để quân sĩ được nghỉ ngơi, phục hồi sức lực, nhà vua phải nghe theo.
Khi đương quan, chứng kiến cảnh các sứ bộ ta được phái sang nhà Thanh thường được giao nhiệm vụ mua hàng hóa xa xỉ cho triều đình nên các quan chức thường lợi dụng để buôn bán, ông đề nghị nhà vua chỉ nên mua những thứ có nhu cầu thiết thực, còn những thứ xa xỉ khác xin bỏ bớt để tiết kiệm ngân khố. Việc này khiến Thiệu Trị phật ý không nghe. Vì thế ông bị nhiều người ghen ghét, nhất là các quan chức ngoại giao.
Bạch Đông Ôn sống rất giản dị, thanh đạm, thường ngày chỉ ăn cơm rau dưa, cà ghém. Uống rượu thường chỉ thích nhắm với lạc rang. Khi đi thanh tra các tỉnh miền Bắc để xem xét việc quan, ông tỏ thái độ công bằng, có công thì thưởng, có tội thì phạt, không ăn của hối lộ đút lót.
Năm 1847, khi đang làm Lang trung bộ Lễ, vì bị ốm, ông dâng sớ xin nghỉ về quê chữa bệnh. Vua Thiệu Trị vốn không ưa gì con người cương trực thẳng thắn ấy nên nổi giận, cho rằng ông thoái thác việc triều đình, giáng chức xuống làm Chủ sự, rồi bắt phải nghỉ việc quan khi mới 36 tuổi.
Các tư liệu cho biết, Bạch Đông Ôn nghỉ hưu ở phố Hàng Đào (Hà Nội), làm nghề dạy học, lúc rảnh rỗi chỉ uống rượu ngâm thơ làm vui. Người bấy giờ ví ông như Đào Tĩnh Tiết (tức Đào Tiềm).
Khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ, ông cùng một số sĩ phu mưu tính khởi nghĩa, nhưng việc bại lộ, bị giặc bắt. Được tha về, ông chán nản, quay lại cuộc sống ẩn dật. Khi Bạch Đông Ôn mất (1881), vua Tự Đức có viếng bốn chữ “Thanh bạch vi thủ” (Thanh bạch làm đầu) và truy tặng sắc “Diên thọ quận công”.
Bạch Đông Ôn có người con trai trưởng tên là Bạch Đôn thi Hương 2 lần đỗ Tú tài, mở trường dạy học ở phố Hàng Đào. Sau tham gia Đông kinh nghĩa thục, thêu cờ “Trượng nghĩa bình Tây”. Mưu sự chưa thành, bị giặc bắt sau lại được thả, rồi đi các chùa ẩn dật, sống đến năm 72 tuổi.
Bạch Đông Ôn có 50 bài thơ in chung với Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý trong “Danh ngôn thi tập”. Trong “Hoè Phủ thi tập” có 70 bài vịnh cảnh, tả người, dạy con cháu... Ngoài thơ, Bạch Đông Ôn còn viết nhiều câu đối và văn xuôi. Tên tuổi của ông được chọn đặt cho một con đường tại TP Thủ Đức (TPHCM).

Chuyện chú cháu “Tiến sĩ bất đệ”
Vị đại khoa thứ tư của Lạc Tràng là Vũ Duyên - tức Vũ Văn Diên (1830 - 1902), quê làng Lạc Tràng, xã Lam Hạ. Vũ Duyên thi đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Tý (1852) đời vua Tự Đức khi mới 20 tuổi và đã được ban mũ áo, chờ vinh quy. Tuy nhiên trong triều lúc đó có kẻ nịnh thần và trong số sĩ tử có kẻ đố kỵ với ông, tâu với triều đình, nhà vua nghe đòi lại văn sách.
Trong văn sách của ông lại có ý chủ trương đánh Pháp, không chịu giảng hòa nên không hợp ý triều đình. Có một giám khảo người Nghệ An lại đọc trọ trẹ câu văn sách của ông là “Cát tài hoàng khảo” thành “Cặt tai hoàng khảo” có nghĩa là “Cắt tai vua cha”. Vua cho là phạm thượng nên phạt nặng, lột mũ áo Tiến sĩ, giáng Vũ Duyên xuống sĩ nhân.
Đến khoa Nhâm Tuất (1862) ông đổi tên thành Vũ Văn Diên, đi thi trúng ngay Cử nhân, rồi được tuyển bổ chức Huấn đạo huyện Trực Ninh (Nam Định); sau được cử thay Tri huyện. Ông không dám tiếp tục thi Hội, sợ lộ tung tích. Ông sống liêm khiết và thương dân. Làm quan hơn 3 năm thì hai năm liền huyện bị thiên tai, hết bão đến lụt, dân cơ cực đói rét, ông đã bỏ tiền nhà và vận động dân trong huyện tổ chức cứu tế giúp dân phần nào đỡ đói khổ.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ, triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, lại nhân trong nhà có người mất nên ông xin từ quan, về quê ở hẳn để dạy học và nghiên cứu thuốc chữa bệnh. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng, làm Huấn đạo, Tri huyện, Án sát, Ngự sử, như Phó bảng Vũ Duy Tuân - cháu gọi ông bằng chú ruột.
Ông mất năm 1902, được các môn sinh xa gần góp tiền tậu một mẫu đất để làm vườn và xây nhà thờ. Mặt trước nhà thờ có đắp nổi 3 chữ “Song Nhâm đường” tức là thờ cụ Song Nhâm (ông thi hai khoa Nhâm, khoa đầu Tiến sĩ, khoa sau Cử nhân).
Vị đại khoa thứ năm của Lạc Tràng là Vũ Duy Tuân (1840 - 1915), quê ở làng Lạc Tràng, là cháu gọi Vũ Duyên bằng chú. Ông là bạn học với anh em Tiến sĩ Dương Khuê, Dương Lâm ở Vân Đình, Hà Đông. Năm Đinh Mão (1867), ông đỗ Cử nhân năm Đinh Mão, năm sau khoa Mậu Thìn niên hiệu Tự Đức thứ 21 (1868), ông thi đỗ Phó bảng.
Năm 29 tuổi được bổ làm quan Ngự sử, nên về sau người ta thường gọi là ông Ngự Lạc Tràng. Tương truyền, Vũ Duy Tuân rất quả cảm, cương trực, các quan triều thần đều kính phục. Nhân một lần dâng sớ can vua Tự Đức đại ý không nên vì quá chăm sóc mẹ già mà quên việc nước đang cấp bách, nhà vua giận quá, châu phê vào bên câu này bốn chữ “Tiến sĩ bất đệ”.
Bốn chữ có ý nghĩa mỉa mai “Tiến sĩ cũng không đỗ được còn làm nên trò trống gì mà cứ hay chỉ trích”. Quan Ngự sử xem vậy, liền dâng sớ xin nghỉ. Sau khi từ giã triều đình, về quê dạy học, ông cho khắc 4 chữ “Tiến sĩ bất đệ” vào biển sơn son thếp vàng, treo trên chỗ ngồi để tỏ ý “ở lăng miếu hay giang hồ, lúc nào cũng nhớ lời vua quở, dù là quở phi lý!”.
Vũ Duy Tuân cũng để lại một số trước tác, trong đó 2 bài “Bích Trì cung tự” và “Bảo Hương tự” được chép trong sách “Thiên gia thi tuyển”, sau lại đăng trong “Thi tuyển danh sĩ Hà Nam” (1999) là tập sách chọn lọc các bài văn thơ chữ Hán của 42 tác giả là các danh sĩ người Hà Nam.
Khi bàn về trường hợp “Tiến sĩ bất đệ”, nhiều người dựa vào ý của vua Tự Đức và cho rằng, Phó bảng không phải là Tiến sĩ, tức không phải đỗ đại khoa. Tuy nhiên, cần biết rằng từ thời Minh Mạng, do số lượng đỗ Tiến sĩ quá ít nên lấy thêm ở bảng Ất (Phó bảng) nên còn được gọi là Ất Tiến sĩ. Điều thiệt thòi là người đỗ Phó bảng thì không được thi Hội lại lần sau. Trong thời khoa cử thịnh hành, người ta xem Phó bảng chỉ là “cái đuôi của Tiến sĩ”, khiến sĩ tử học giỏi nhưng kém may phải hậm hực, bất mãn. Như Đỗ Huy Uyển người Nam Định, vì văn bài có câu khiếm nhã, bị truất xuống bảng phụ, ông Uyển nằng nặc đòi trả lại bằng Phó bảng, buồn bực mãi đến cuối đời.