Một hướng đi đào tạo giáo viên phục vụ CTGDPT mới

GD&TĐ - Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sư phạm luôn là mục tiêu của các trường sư phạm. Trong đó, mô hình đào tạo giáo viên A+B được đánh giá không chỉ có chất lượng mà còn tạo sự linh hoạt cho người học.

Sinh viên Trường ĐH Sư phạm TPHCM trong một buổi học nhóm. Ảnh: A.Xuân.
Sinh viên Trường ĐH Sư phạm TPHCM trong một buổi học nhóm. Ảnh: A.Xuân.

Mô hình đào tạo giáo viên A+B đang bước đầu triển khai tại các trường sư phạm không chỉ dừng lại ở chất lượng đào tạo, mà còn linh hoạt cho người học cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp. Xung quanh vấn đề này, PV Báo Giáo dục & Thời đại có cuộc trò chuyện với PGS.TS Dương Thị Hồng Hiếu  - Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Sư phạm TPHCM.

   Linh hoạt cho người học

   Với mô hình đào tạo giáo viên A+B, kiến thức mà người học thu nhận được sẽ như thế nào, thưa bà?   

PGS.TS Dương Thị Hồng Hiếu - Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Sư phạm TPHCM
PGS.TS Dương Thị Hồng Hiếu  - Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Sư phạm TPHCM

-PGS.TS Dương Thị Hồng Hiếu: Hiện nay, trên thế giới việc đào tạo GV được triển khai theo nhiều mô hình khác nhau: SV có một bằng cử nhân khoa học và sau đó sẽ học thêm chương trình nghiệp vụ sư phạm ở một trường đại học đào tạo giáo viên để lấy một chứng chỉ về giảng dạy (ví dụ ở Anh, Úc, Singapor…); hoặc SV học liên tiếp từ chương trình cử nhân khoa học lên thạc sĩ giảng dạy (như ở Phần Lan); hoặc SV học song bằng (một chương trình cử nhân khoa học và chương trình cử nhân giáo dục) để khi tốt nghiệp có thể có 2 bằng cử nhân (ví dụ như ở Úc, …); hoặc SV học song song đồng thời phần kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm để lấy bằng cử nhân sư phạm (như ở Việt Nam, Thái Lan, Singapor…).

Mô hình đào tạo giáo viên “A+B”  là một mô hình kết hợp. Theo đó, SV được đào tạo phần A (kiến thức chuyên môn) và phần B (kiến thức nghiệp vụ sư phạm, trải nghiệm nghề nghiệp) tương đối tách biệt nhưng vẫn trong khung thời gian đào tạo để nhận bằng cử nhân sư phạm. Với mô hình này, các SV sư phạm có cơ hội học rất sâu kiến thức lĩnh vực chuyên môn vì các em được học phần A với các giảng viên giỏi của khoa học chuyên ngành đó.

Phần nghiệp vụ sư phạm các em cũng được học với các giảng viên giỏi của bộ môn khoa học giáo dục, phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của chúng tôi thì cũng không nên tách bạch hoàn thành thành A + B. Vì trong giai đoạn A chúng tôi đề xuất có triển khai một phần nội dung nghiệp vụ sư phạm giúp SV có thể tiếp cận với nghề giáo viên sớm hơn, khắc phục hạn chế của mô hình tiếp nối trên thế giới.

   Vậy, cơ hội việc làm của mô hình này ra sao?

   - Một trong các ưu điểm của mô hình A+B là cho phép người học có thể tham gia vào các chương trình đào tạo một cách linh hoạt hơn và do vậy cho họ có nhiều cơ hội để chuyển đổi nghề nghiệp hơn. Đây cũng là mô hình tạo cơ hội cho nhiều SV và các đối tượng có liên quan gắn kết với ngành sư phạm và đảm bảo các yêu cầu về nguồn nhân lực và các yêu cầu về phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.

   Cần đầu tư trong khâu thiết kế chương trình

   Nhận định của bà về việc triển khai mô hình này tại Trường ĐH Sư phạm TPHCM nói riêng và hệ thống các trường sư phạm nói chung?

   - Việc triển khai mô hình tại Trường ĐH Sư phạm TPHCM (HCMUE) nói riêng và tại hệ thống các trường sư phạm nói chung trong điều kiện hiện nay là khả thi với một số điều kiện đi kèm. Chẳng hạn, HCMUE của chúng tôi là một trường ĐH đa ngành, vốn có truyền thống và thế mạnh tương đối tốt ở các lĩnh vực khoa học cơ bản (tự nhiên, nhân văn) bên cạnh thế mạnh ở lĩnh vực khoa học giáo dục. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng tôi sẵn có một đội ngũ giảng viên giỏi và có nhiều kinh nghiệm về cả lĩnh vực chuyên môn về khoa học cơ bản và khoa học giáo dục.

Như vậy, việc triển khai mô hình này dành cho các chương trình đào tạo giáo viên trung học sẽ gặp rất nhiều thuận lợi bởi SV sẽ được học sâu về các kiến thức chuyên môn khoa học cơ bản với các thầy cô giỏi về lĩnh vực này đồng thời cũng được học và thực hành nhuẫn nhuyễn với các thầy cô có kinh nghiệm về phương pháp, kĩ năng sư phạm trong lĩnh vực khoa học giáo dục.

Tuy nhiên, để triển khai được mô hình này đòi hỏi phải có sự đầu tư trong khâu thiết kế chương trình để có thể khắc phục được những điểm vốn được xem là hạn chế của mô hình tiếp nối. Ví dụ như làm thế nào để tránh việc quá trình giảng dạy bị phân thành các mảnh rời rạc giữa kiến thức của môn học với kiến thức sư phạm. Làm sao để sinh viên khi chọn học sư phạm thì sẽ gắn bó với nghề...

   Bà có thể chia sẻ thêm việc có thể tận dụng nguồn nhân lực ngành khác trong đào tạo sư phạm của mô hình này?

   - Như tôi đã đề cập, trường của chúng tôi vốn dĩ đã là trường đại học đa ngành nên chúng tôi có thể khai thác tối đa nguồn nhân lực giảng viên ở lĩnh vực khoa học cơ bản kết hợp với lĩnh vực khoa học giáo dục. Đồng thời, trường chúng tôi cũng có SV các ngành ngoài sư phạm nên có thể kết hợp tổ chức một số học phần khoa học cơ bản học chung giữa SV sư phạm và ngoài sư phạm cùng lĩnh vực hoặc các lĩnh vực gần nhau để tận dụng nguồn lực giảng dạy của trường.

   Liên quan việc triển khai mô hình A+B tại trường, dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài cá nhân bà có đề xuất gì?

   - Theo tôi, đối với các trường sư phạm có đào tạo ngành ngoài sư phạm như HCMUE thì khi thiết kế chương trình đào tạo (CTĐT) có phần A và B, trong đó A là phần giao nhau giữa CTĐT sư phạm và ngoài sư phạm thì có thể cân nhắc triển khai như sau:

+ Mô hình 1: SV sẽ đào tạo phần chung của khối, nhóm ngành tập trung hơn ở giai đoạn đầu. Phần kiến thức khoa học giáo dục, nghiệp vụ sư phạm, thực hành, thực tập,… sẽ được đào tạo riêng và tập trung hơn ở giai đoạn sau. Tuy nhiên, để tạo cơ hội cho SV được nhúng vào môi trường nghề nghiệp ngay từ sớm thì một số học phần nghiệp vụ sư phạm, thực hành vẫn sẽ được triển khai từ năm thứ 1 và thứ 2. SV nhận bằng cử nhân sư phạm sau 4 năm. Mô hình này không hoàn toàn tách rời phần A và B khi triển khai, không có nhiều thay đổi so với hiện nay nên có thể thực hiện ngay.

+ Mô hình 2: Về cơ bản mô hình này giống mô hình 1 ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, nếu mô hình 1 đến giai đoạn 2, SV chủ yếu học về sư phạm; còn  ở mô hình 2, SV có thêm một nhánh lựa chọn nữa là các học phần nghề nghiệp của ngành ngoài sư phạm để SV có thể lựa chọn tích lũy và nếu sinh viên tích lũy đủ cả hai nhánh này thì khi tốt nghiệp SV sẽ vừa có bằng cử nhân khoa học và bằng cử nhân sư phạm.

+ Mô hình 3: Với mô hình này, SV được đào tạo cả hai khối A và B của một ngành cử nhân khoa học và có bằng cử nhân khoa học rồi học thêm 1 đến 1,5 năm khối B của ngành sư phạm tương ứng để lấy thêm bằng sư phạm. Ưu điểm của mô hình này là có thể tuyển SV đã có bằng cử nhân và muốn chuyển nghề nghiệp sang làm giáo viên. Thực tế việc đào tạo này hiện nay đã có và còn gọi là đào tạo văn bằng 2. Tuy nhiên, sự cải tiến ở đây là ngay ở khâu xây dựng các CTĐT trong cùng một nhóm đã cấu tạo có nhiều phần giao thoa, liên thông giúp cho các sinh viên tốt nghiệp các ngành cử nhân khoa học có thể tiết kiệm thời gian nếu muốn học tiếp bằng thứ hai về sư phạm trong cùng nhóm ngành.

+ Mô hình 4: Đây là mô hình SV được đào tạo có bằng cử nhân khoa học chuyên môn rồi học tiếp 1,5 đến 2 năm cao học ngành Lý luận và phương pháp dạy học (PPDH) bộ môn để nhận thêm 1 bằng thạc sĩ Lý luận và PPDH bộ môn.

Đối với Trường ĐH Sư phạm TPHCM, hiện tại, một số ngành đào tạo của nhà trường đã triển khai theo mô hình 1. Với mô hình 2 thì hiện trường cũng đã triển khai đào tạo theo hình thức học cùng lúc hai chương trình với các sinh viên có học lực khá, có nguyện vọng và đạt điều kiện xét tuyển. Với mô hình 4 thì với một số ngành gần phù hợp, SV cũng đã được tạo điều kiện học chuyển đổi để tham dự xét tuyển. Tuy nhiên, với kết quả của nghiên cứu mà trường đã thực hiện, trường dự kiến sẽ cải tiến thiết kế CTĐT một cách đồng bộ, xây dựng các quy định, hướng dẫn để tăng tính liên thông ngang và dọc ở tất cả các ngành phù hợp nhằm tăng tính linh hoạt, giúp SV có nhiều lựa chọn hơn trong thời gian tới.

  Xin cám ơn bà.

"Trường ĐH Sư phạm TPHCM có những nhiệm vụ nghiên cứu được Chương trình ETEP giao để khảo sát về nhu cầu đào tạo giáo viên và những dữ liệu này rất quan trọng để Trường định hướng phát triển đào tạo và bồi dưỡng. Các ngành đào tạo mới của Trường như: Sư phạm Sử - Địa, Sư phạm Khoa học tự nhiên, Sư phạm công nghệ, Giáo dục công dân, Tâm lý học trường học... đã mở và sắp mở là động thái rất quan trọng Trường thực thi một cách quyết liệt.

Hay với ngành Sư phạm tiểu học, Sư phạm tiếng Anh... là các ngành tiềm năng và đáp ứng rất lớn nhu cầu xã hội sẽ được Trường quan tâm và định hướng phát triển đào tạo theo nhu cầu xã hội... bằng các đề án theo định hướng của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học sửa đổi và các văn bản khác có liên quan.

Song song đó, nhà trường với nhiều chuyên gia phát triển chương trình, nhiều giảng viên bắt nhịp với CTGDPT mới, nhà xuất bản có kinh nghiệm thực hiện sách giáo khoa sẽ tiếp tục gắn kết với các Sở Giáo dục và Đào tạo để triển khai công tác phát triển năng lực triển khai chương trình cho giáo viên...".

GS.TS Huỳnh Văn Sơn (Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TPHCM)

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Kiev nêu bản chất kinh tế của xung đột

Kiev nêu bản chất kinh tế của xung đột

GD&TĐ - Kiev cho rằng, bản chất của cuộc xung đột ở Ukraine là Nga muốn kiểm soát các vùng giàu tài nguyên thiên nhiên như Lithium và đất hiếm, của Ukraine.

Nhà báo Phạm Khánh Huy. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Vinh danh những nhà giáo âm thầm cống hiến

GD&TĐ - Tìm kiếm, tôn vinh và lan tỏa những tấm gương nhà giáo luôn âm thầm cống hiến, hết lòng vì thế hệ tương lai là một trong những nhiệm vụ của người làm báo.

Học sinh Trường THPT chuyên Lào Cai cất điện thoại khi đến lớp. Ảnh: NTCC

Những tiết học không smartphone

GD&TĐ - Với mục tiêu xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, ngành GD các địa phương đã chỉ đạo quản lý sử dụng điện thoại trong trường.

Silic hữu cơ có khả năng chống tia UV được tìm thấy trong bã mía.

Học sinh làm kem chống nắng từ bã mía

GD&TĐ - Hợp chất hữu cơ Silic có trong bã mía có thể thay thế kem chống nắng, giúp bảo vệ da khỏi tia cực tím, là phát hiện của nhóm học sinh Hà Nội.

Ông Trần Duy Đông giới thiệu về giải pháp tổng thể cho phòng học thông minh 4.0.

Công nghệ phòng học thông minh

GD&TĐ - Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ TPHCM vừa tổ chức giới thiệu công nghệ 'Giải pháp tổng thể cho phòng học thông minh 4.0'.

Sự tự đánh giá của một đứa trẻ trước hết xuất phát từ sự đánh giá của người khác về trẻ, và điều quan trọng nhất là sự đánh giá của cha mẹ. (Ảnh: ITN).

Lý do cha mẹ cần tin tưởng con

GD&TĐ - Để giáo dục và rèn luyện tốt cho trẻ một cách cơ bản, chúng ta nên nuôi dưỡng ý thức về giá trị bản thân của trẻ ngay từ khi còn nhỏ.