Ngày ấy, cách đây đã tám năm rồi. Quê tôi là vùng rốn lũ, nơi chịu nhiều thiên tai đến khủng khiếp, mọi người, mọi nhà chỉ lo chạy lũ lụt từ nơi này sang nơi khác, chẳng còn hơi đâu nghĩ đến việc học hành của con trẻ.
Hoàn cảnh của một đứa trẻ mồ côi mẹ, mới lên tám tuổi đầu như tôi càng bi đát hơn. Để chạy trốn thiên tai, cha dắt tôi đi mãi. Rồi một ngày, khi tìm được một nơi tạm ổn, cha cho tôi đi học và tôi trở thành học sinh từ ấy.
Một sớm mai, lẽo đẽo theo sau dáng gầy guộc của cha, tôi đến ngôi trường nho nhỏ nằm cạnh ngôi chùa đầu làng. Ngôi trường do các nhà sư xây dựng, dạy học miễn phí cho con em nghèo.
Trường đơn sơ làm từ tranh tre vách liếp, nhưng không phải vì thế mà không có quy củ. Thầy tôi rất nghiêm khắc, bắt chúng tôi xếp hàng ngay ngắn khi vào lớp cũng như lúc ra về.
Ngày ấy thầy vào độ tuổi trung niên, nước da trắng, dáng người thanh mảnh. Đặc biệt, sau đôi kính cận là cặp mắt thật hiền từ phúc hậu. Bọn trẻ chúng tôi quần đùi, áo vá, đầu trần, chân đất đến lớp, đôi khi toạc áo, sứt nút là chuyện bình thường. Thầy tỉ mẩn khâu vá lại cho lũ trẻ chúng tôi.
Với tôi, thầy đúng là một ông tiên. Từ đứa trẻ lên tám chưa hề biết một chữ cái, thế mà một năm nhờ thầy dạy dỗ, vốn kiến thức của tôi đã bằng học sinh lớp 2.
Năm sau, tôi được thầy "đặc cách" xin vào lớp ba cùng bạn bè trang lứa. Sung sướng hơn nữa, tôi vẫn ở tốp học sinh giỏi của lớp. Cứ thế, tôi lên lớp đều đều và hằng năm mỗi dịp tháng 9, tôi cùng các bạn hân hoan chào đón mùa tựu trường...
Ngôi trường tình thương đơn sơ thuở nào bây giờ đã được thay thế bằng ngôi trường ba tầng, khang trang do một Việt kiều về thiện nguyện.
Còn thầy tôi không rõ đã đi đâu, về đâu, tôi lần hồi hỏi thăm mà không ai biết. Tiếng chuông chùa gần đó lại ngân lên, kéo tôi về thuở xa xưa đầy ắp kỷ niệm tuổi thơ và thấy nhớ công ơn của thầy, nhớ đến điều diệu kỳ mà thầy đã làm cho tôi.
Mỗi mùa tựu trường, tôi lại có khoảng trống ngẩn ngơ, nhớ tới hình ảnh người thầy đầu tiên và trong lòng thầm gọi hai tiếng "Thầy ơi!".