KHTN là môn học bắt buộc ở các lớp 6, 7, 8 và 9 của THCS và là môn tự chọn 2 ở các lớp 10 và lớp 11 của THPT. GD&TĐ đã có cuộc chia sẻ với PGS.TS Mai Văn Hưng, Chủ nhiệm bộ môn KHTN, Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) về những đổi mới trong dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông mới môn KHTN.
Môn học có tính ưu việt
Thưa PGS.TS Mai Văn Hưng, ông đánh giá như thế nào về tính ưu việt của môn KHTN trong chương trình PT mới?
Học để làm gì, đó là câu hỏi có rất nhiều đáp án, trong đó “học để thích nghi với môi trường sống” là một đáp án rất quan trọng, mà muốn thích nghi thì con người cần phải giải quyết được những vấn đề do môi trường sống đặt ra, trong đó có môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, các vấn đề trong môi trường sống tự nhiên không thể sử dụng kiến thức của một môn học riêng rẽ nào có thể giải quyết được triệt để và thấu đáo. Nếu môn KHTN bao gồm các kiến thức tích hợp bởi Vật lý, Hóa học, Sinh học và Khoa học trái đất chính được triển khai thành công thì nó có tính ưu việt hơn hẳn các đơn môn trong việc giải quyết vấn đề “học để thích nghi”.
Trong môn KHTN, những nguyên lý/khái niệm chung nhất của thế giới tự nhiên được tích hợp xuyên suốt các mạch nội dung, PGS đánh giá như thế nào về vấn đề tích hợp trong môn học này?
Nguyên lý và khái niệm là những nội dung đòi hỏi tính thống nhất, chỉnh thể và chính xác rất cao. Trong KHTN, điều này có thể coi như chân lý, nếu ở mỗi cấp học các nguyên lý hay khái niệm lại thay đổi khi nói về cùng một sự vật hay hiện tượng thì điều đó là không được.
Vì thế trong chương trình môn KHTN, các nguyên lý hay khái niệm được trình bày thống nhất xuyên suốt các mạch nội dung là rất cần thiết vừa đảm bảo tính khoa học vừa khẳng định tính nhất quán trong tư duy nhận thức.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn lý thuyết với thực nghiệm trong chương trình môn học KHTN được đánh giá cao, theo PGS, cần phải đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá như thế nào trong quá trình đổi mới?
Học kiến thức gắn liền với thực nghiệm khoa học về các kiến thức, trên cơ sở đó vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn là xu thế hiện nay trên phạm vị toàn cầu. Chúng ta không thể đứng ngoài tiến trình lịch sử này của nhân loại. Để phù hợp với cách tiếp cận này, chúng ta cần có một số thay đổi như sau: Kiến thức môn học phải chỉ ra được việc học kiến thức này gắn với thực tiễn cuộc sống như thế nào; Học sinh cần được trực tiếp thực nghiệm trên lớp và thực hành tại địa phương những kiến thức học được.
Việc kiểm tra đánh giá cũng cần phải đổi mới theo hướng trả lời cho câu hỏi “học cái đó để làm gì?” hoặc tự mình phát hiện ra vấn đề và giải quyết vấn đề trong thực tiễn chứ không đơn thuần là trả lời câu hỏi của thầy một cách thụ động.
Cùng với các môn Toán học, Công nghệ và Tin học, môn KHTN góp phần thúc đẩy giáo dục STEM (Science, Technology, Engineering, Mathematics) - một trong những hướng giáo dục đang được quan tâm phát triển trên thế giới. Theo PGS, hướng triển khai trong các trường đã được thực hiện như thế nào?
Giáo dục STEM đúng là đang được quan tâm trên phạm vi toàn cầu và không chỉ STEM mà còn là STEAM (Science, Technology, Engineering, Art Mathematics). Thông qua việc liên kết với Hội đồng Anh, chúng ta đã triển khai tại nhiều trường phổ thông đặc biệt là các trường THCS. Cuộc thi Sáng tạo Khoa học & Kĩ thuật (ISEF) các cấp hiện nay chính là một trong những kết quả hiện thực hóa của giáo dục STEM.
Việc triển khai mở rộng mô hình này đang được Bộ GD&ĐT quan tâm. Tuy nhiên, chúng ta cần có những chiến lược dài hơi, những đầu tư khoa học hơn nữa, bên cạnh đó cần có những kiểm tra đánh giá thực sự khách quan thì STEM mới mang lại hiệu quả thiết thực với thực tiễn của Việt Nam.
Sáng tạo trong tiếp cận dạy và học
Theo PGS, chương trình dự thảo môn học có phù hợp với học sinh hay không?
Chương trình dự thảo môn học về nội dung kiến thức có sự kế thừa của chương trình hiện hành, có những nội dung cập nhật với sự phát triển của khoa học nên về cơ bản là phù hợp với học sinh hiện nay. Tuy nhiên, các nội dung “Quan điểm xây dựng chương trình”, “Mục tiêu chương trình”, “Yêu cầu cần đạt”, “Nội dung giáo dục”, “Phương pháp giáo dục” trong dự thảo còn rườm rà, lặp lại hay giải thích
Ví dụ đoạn: “Quan điểm xây dựng chương trình: “Chương trình môn KHTN cụ thể hóa những mục tiêu và yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, bao gồm: (i) Định hướng chung cho tất cả các môn học như: Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu cần đạt, kế hoạch giáo dục và các định hướng về nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả, điều kiện thực hiện và phát triển chương trình; (ii) Định hướng xây dựng chương trình môn KHTN ở cấp trung học cơ sở” nên bỏ vì các đề mục này được lặp lại trong các phần nhỏ sau đó.
Để chương trình có thể phát huy được định hướng phát triển năng lực người học, PGS có đề xuất gì?
Để chương trình có thể phát huy được định hướng phát triển năng lực, tôi có một số đề xuất sau:
Thứ nhất, cần phân biệt rõ “Năng lực” với “Kĩ năng” tránh sự chồng chéo khi sử dụng các thuật ngữ này, nên chăng định nghĩa đơn giản và mở hơn. “Năng lực là khả năng thích ứng của con người với môi trường sống”. Điều này giúp cho giáo viên có định hướng vĩ mô, từ đó họ có sự sáng tạo trong cách tiếp cận dạy và học theo hướng phát triển năng lực của chương trình.
Thứ hai, do có các nội dung kiến thức và phương pháp mới nên cần đào tạo lại (bồi dưỡng) các giáo viên trên diện rộng trực tiếp từ các trường đại học chuyên ngành có uy tín.
Thứ ba, việc dạy tích hợp liên môn thực sự là một thách thức lớn nhất đối với giáo viên hiện nay. Vì thế nội dung kiến thức trong sách giáo khoa cần được trình bày theo hướng tích hợp, thực sự đây cũng là thách thức đối với các tác giả viết sách hiện nay.
Thứ tư, cần có những tập huấn cho giáo viên nhằm chỉ rõ về cách dạy các môn tích hợp, cấu trúc các nội dung tích hợp, phương pháp thiết kế bài dạy tích hợp…
Thứ năm, việc xác định cho giáo viên chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất phù hợp và linh hoạt với các mức độ yêu cầu dạy và học khác nhau tùy theo địa phương.