Bệnh sán dây bò phân bố ở khắp nơi, liên quan đến tập quán ăn uống. Ở Việt Nam, sán dây bò thường gặp hơn sán dây lợn, tỷ lệ mắc bệnh sán dây bò 78%, sán dây lợn 22%.
Người mắc bệnh do thói quen thích ăn thịt trâu bò tái. Vùng đồng bằng mắc bệnh cao hơn miền núi với tỉ lệ từ 1 - 4%.
Sán dây bò lây bệnh cho người
Cấu tạo của sán dây bò bao gồm một đầu, cổ và một chuỗi các đốt độc lập là nơi trứng hình thành. Đầu sán là bộ phận gắn kết của sán. Sán dây bò trưởng thành dài 4 - 12m, thân sán gồm trên 1.000 đốt, đốt trưởng thành dài 20 - 30mm.
Đầu sán nhỏ, có 4 hấp khẩu, khác biệt với sán dây lợn là đầu không có vòng móc. Trứng sán dây bò có hình bầu dục, kích thước 20-30mm x 30-40mm.
Ấu trùng là một bọc chứa đầy chất lỏng, bên trong có đầu ấu trùng, không có móc. Sán dây bò sống ký sinh ở ruột non.
Đốt sán già sau khi rời khỏi thân sán có khả năng di động, tự bò ra hậu môn để phát tán ra ngoại cảnh hoặc theo phân ra ngoài. Trứng không đòi hỏi thời gian phát triển ở ngoại cảnh.
Bệnh nhân thường dễ biết mình bị mắc bệnh vì phát hiện các đốt sán ở quần áo, giường chiếu.
Các đốt sán rụng ra chuyển động nhờ những cơ rất khỏe nên nó có thể bò lên bụng, lên nách bệnh nhân hoặc bò khắp giường chiếu. Mỗi ngày, thân sán có thể mọc dài ra từ 3 - 28 đốt.
Các đốt sán già rơi ra ngoại cảnh và vỡ ra, giải phóng hàng trăm ngàn trứng. Nếu trâu, bò ăn phải đốt sán vào ruột sẽ nhiễm bệnh.
Trong ruột của trâu bò, trứng sán nở ra ấu trùng và xâm nhập vào hệ tuần hoàn để về tim, sau đó theo máu đi đến các cơ vân để hình thành nang ấu trùng ở bắp cơ của trâu, bò và thường được gọi là “gạo bò” (cysticercus bovis).
Nang ấu trùng sán bò thấy nhiều ở cơ lưỡi, cơ hoành, cơ tim, cơ mông ... của trâu, bò. Sau 4 tháng phát triển, nang sán có khả năng lây nhiễm. Khi người ăn thịt trâu, bò có nang ấu trùng sán dây bò chưa được nấu chín kỹ sẽ mắc bệnh.
Nang ấu trùng vào ruột người, ấu trùng sẽ thoát ra khỏi nang, đầu bám vào thành ruột và phát triển thành sán trưởng thành trong khoảng từ 8 - 10 tuần. Sán dây bò có thể sống trong cơ thể người từ 20 - 30 năm. Bệnh cũng có thể lây trực tiếp từ người sang người hoặc qua thức ăn, nước uống.
Biểu hiện bệnh
Bệnh nhân bị bệnh sán dây bò có thể thấy đốt sán già bò ra hậu môn. Người mắc bệnh sán dây bò hay người nhà dễ phát hiện ra bệnh khi thấy đốt sán rơi ra chăn chiếu, ga đệm.
Gia đình có người mắc bệnh bị những tác động tâm lý nặng nề, khó chịu và ghê sợ khi nhìn thấy những đốt sán tự rụng ra, bò khắp nơi trên giường, chiếu, quần áo.
Bệnh nhân có thể bị rối loạn tiêu hoá: đau bụng, đau chủ yếu ở vùng hồi tràng. Bệnh nhân có thể đi ngoài lỏng, suy nhược cơ thể, thiếu máu nhẹ, có cảm giác bứt rứt, khó chịu khi đốt sán bò ra ngoài hậu môn. Đôi khi xảy ra tắc ruột hoặc bán tắc ruột.
Các triệu chứng khác gồm: viêm lưỡi, khó thở, tim đập nhanh và các biểu hiện thần kinh như tê bì, rối loạn cảm giác, rối loạn thăng bằng, nghe kém, sa sút trí tuệ.
Điều trị bằng thuốc đặc hiệu
Thuốc điều trị đặc hiệu để diệt sán là praziquantel và niclosamid. Đối với sán dây bò, dùng praziquantel liều duy nhất đạt hiệu quả khỏi bệnh gần 99%.
Hoặc dùng liều duy nhất 4 viên (2g) niclosamid, tỷ lệ khỏi bệnh cũng trên 90%. Việc điều trị phải có sự chỉ định cụ thể và theo dõi của thầy thuốc để tránh những phản ứng phụ của thuốc gây ra.
Có cơ sở y tế áp dụng biện pháp điều trị sán dây cho bệnh nhân bằng phương pháp sổ sán bắt nguyên con, điều trị trong ngày, an toàn, tiết kiệm thời gian và kinh tế cho bệnh nhân, đồng thời đem lại hiệu quả triệt để.
Lưu ý không dùng thuốc nhuận tràng trước và sau khi dùng thuốc điều trị. Để điều trị triệu chứng thiếu máu và các biểu hiện thần kinh trong nhiễm sán dây, có thể dùng vitamin B12 có hiệu quả tốt.
Biện pháp phòng bệnh
Để phòng bệnh sán dây bò, mọi người cần thực hiện tốt các biện pháp: giữ vệ sinh ăn uống, không ăn thịt bò, thịt trâu sống hoặc tái, không ăn thịt đã nhiễm bệnh.
Luôn luôn thực hiện ăn chín uống sôi. Rửa tay sạch bằng xà phòng trước khi ăn uống và sau khi lao động hoặc tiếp xúc với dụng cụ lao động và môi trường. Khi có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm sán, nên đi khám để được chẩn đoán và điều trị bệnh kịp thời.
Điều trị tích cực cho bệnh nhân để khống chế nguồn lây bệnh. Khi thấy các đốt sán rụng ra giường chiếu, phải thu gom xử lý diệt.
Sử dụng hố xí hợp vệ sinh để quản lý nguồn phân thải mang mầm bệnh ký sinh trùng, tránh làm vương vãi trứng giun ra làm ô nhiễm môi trường. Cơ quan chức năng cần quản lý và kiểm tra chặt chẽ lò mổ trâu bò.