Tỉnh Quảng Ngãi thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ học sinh bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú và trường phổ thông có học sinh bán trú, tạo điều kiện cho học sinh học tập, nâng cao chất lượng giáo dục.
Động lực để giáo dục vùng khó chuyển mình
Trong thời gian qua, việc thực hiện hỗ trợ chính sách tại Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ đã góp phần giải quyết những trở ngại cho học sinh ở vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Quảng Ngãi có điều kiện đến trường.
Theo đó, các trường đã duy trì được sĩ số học sinh, giảm tình trạng học sinh bỏ học do khó khăn về kinh tế, thiếu ăn. Là điều kiện thuận lợi để các trường làm tốt công tác huy động học sinh ra lớp, hạn chế đến mức thấp nhất số học sinh bỏ học, tạo chuyển biến tích cực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của địa phương.
Cùng với đó, chính sách hỗ trợ đối với trường phổ thông dân tộc bán trú và trường phổ thông có học sinh bán trú (trường có tổ chức nấu ăn cho học sinh) giúp các cơ sở giáo dục này có kinh phí để trang bị những điều kiện cơ bản: Mua sắm dụng cụ thể thao, trang bị tủ thuốc cho học sinh, kinh phí phục vụ việc nấu ăn cho học sinh…
Ghi nhận tại Trường PTDTBT TH&THCS Sơn Dung (huyện Sơn Tây), năm học này trường có hơn 460 học sinh được hỗ trợ theo Nghị định 116. Để các em hứng thú với việc đến trường thì ngoài sự ân cần giúp đỡ của thầy cô giáo, Nhà trường còn đặc biệt chú trọng đến bữa ăn trưa của các em.
Các bữa ăn đều được bộ phận cấp dưỡng của trường chuẩn bị chu đáo, đảm bảo dinh dưỡng với đầy đủ các món thịt, cá, rau, củ…
Theo thầy Nguyễn Anh Tuấn, Hiệu trưởng Trường PTDTBT TH&THCS Sơn Dung, phần lớn học sinh tại trường đều có hoàn cảnh khó khăn nên bữa ăn tại nhà của các em không đủ dinh dưỡng.
“Từ khi có sự hỗ trợ từ chính sách của Đảng và Nhà nước, các em được học ở trường lớp khang trang, được ăn uống đầy đủ dưỡng chất cộng với sự gần gũi của thầy cô, nên các em hào hứng đến trường hơn. Nhờ thế mà tình trạng “cúp học” cũng giảm hẳn”, thầy Tuấn chia sẻ.
Tương tự tại huyện Trà Bồng, loạt các chính sách hỗ trợ giáo dục vùng đặc biệt khó khăn đã mang đến những chuyển biến tích cực đối với huyện miền núi này.
Năm học này, toàn huyện có 4.145 học sinh được hỗ trợ theo Nghị định 116, con số của năm học trước là 4.024.
Theo bà Đinh Thị Thu Hương, Trưởng phòng GD&ĐT huyện Trà Bồng, việc thực hiện các chính sách giáo dục với vùng đặc biệt khó khăn, trong đó nổi bật là Nghị định 116 đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Minh chứng qua việc tỉ lệ học sinh ra lớp được cải thiện, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao thể hiện qua việc số lượng học sinh đạt thành tích cao tại các cuộc thi, kỳ thi tăng theo từng năm.
Tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời
Nhằm thực hiện trọn vẹn các chính sách theo Nghị định 116, tỉnh Quảng Ngãi đã luôn chủ động trong công tác tham mưu, đề xuất, thống kê… để đảm bảo hỗ trợ kịp thời học sinh và các trường học trên địa bàn.
Điển hình cho sự sốt sắng đó là hằng năm ngay khi vừa kết thúc năm học, tỉnh Quảng Ngãi nhanh chóng có báo cáo cũng như đề xuất nhu cầu hỗ trợ gạo cho học sinh trong năm học tiếp theo.
Theo báo cáo của UBND tỉnh Quảng Ngãi, trong năm học 2023-2024, toàn tỉnh có 14.464 học sinh được hỗ trợ gạo với số lượng gạo đã cấp là hơn 1.941 tấn.
Năm học 2024-2025, Quảng Ngãi xây dựng kế hoạch hỗ trợ gạo cho hơn 15 nghìn học sinh với nhu cầu là hơn 2 nghìn tấn gạo. Trong tháng 10, hơn 444 tấn gạo (đợt 1) đã được Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghĩa Bình xuất cấp cho tỉnh Quảng Ngãi để hỗ trợ cho 14.888 học sinh.
Sở GD&ĐT Quảng Ngãi là đơn vị được giao chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp, thực hiện hỗ trợ gạo cho học sinh theo đúng quy định tại Nghị định 116.
Theo lãnh đạo Sở GD&ĐT Quảng Ngãi, giai đoạn 2020-2023, các chính sách quy định tại Nghị định số 116 đã mang lại kết quả vượt trội cho giáo dục vùng khó.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn nhiều trở ngại và khó khăn, cụ thể là địa phương có địa hình phức tạp, miền núi thường xảy ra sạt lở, nhưng thời điểm cấp gạo trong năm học thuộc mùa mưa, lũ… đơn vị và địa phương, đơn vị nhận gạo của Cục Dự trữ Nhà nước khi gạo đưa ra môi trường bên ngoài không có kho dự trữ theo quy chuẩn nên phải huy động một lực lượng lớn cán bộ quản lý, giáo viên, viên chức và học sinh thực hiện công tác tiếp nhận, phân phối và bảo quản gạo trước và trong quá trình cấp phát cho học sinh.
Cùng với đó, các văn bản quy định xã, thôn,… đặc biệt khó khăn thường xuyên thay đổi không ổn định, nên khó khăn trong việc triển khai thực hiện tại địa phương.
Ngoài ra, vì đối tượng được hỗ trợ gạo là học sinh, nên mặc dù đã được rà soát đối tượng trước khi thực hiện phân bổ gạo nhưng đến thời điểm cấp gạo học sinh nghỉ học nên không nhận gạo, sau nhiều lần vận động học sinh vẫn không đến lớp, bỏ học; dẫn đến tồn một số lượng gạo đã được phân bổ ở học kì II (thời gian chờ để xem xét, phân bổ số gạo tồn này cho học kỳ I năm học tới khoảng 5 tháng) nhưng chưa được hướng dẫn xử lý tại Nghị định 116 và các văn bản hướng dẫn khác có liên quan.
Thêm nữa, hiện nay mức hỗ trợ đối với trường phổ thông dân tộc bán trú và trường phổ thông có học sinh bán trú (trường có tổ chức nấu ăn cho học sinh) còn thấp, mong Bộ GD&ĐT sớm điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay.