Do đó, cần có chính sách trao học bổng cho người làm nghiên cứu sinh (NCS) nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học.
“Chìa khoá” thu hút NCS giỏi
Mới đây, Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội ban hành Quy định về việc hỗ trợ học bổng cho các NCS và thực tập sinh sau tiến sĩ ở ĐH Quốc gia Hà Nội (Quyết định số 3688/QĐ-ĐHQGHN). Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức - Trưởng ban Đào tạo, đây là một quyết định lịch sử, đã ấp ủ và trăn trở từ lâu, nhưng đến bây giờ mới trở thành hiện thực. Quyết định này có ý nghĩa và tác động rất lớn, sẽ tạo nên những đột phá trong nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Theo đó, mức hỗ trợ học bổng lên đến 100 triệu/năm cho các NCS và 120 triệu/năm cho các tiến sĩ trẻ có năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế xuất sắc. Với học bổng này, cộng thêm nguồn hỗ trợ khác từ hoạt động tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học, các NCS và thực tập sinh có thể yên tâm, toàn tâm toàn ý cho nghiên cứu.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đồng thời cho hay: Đây cũng là lần đầu tiên trong cả nước có một đại học công lập tiên phong thiết lập và cấp học bổng cho thực tập sinh sau tiến sĩ. Thông qua quyết định này sẽ thu hút được nhiều NCS giỏi, tiến sĩ giỏi đến ĐH Quốc gia Hà Nội học tập, nghiên cứu. Nhờ đó, vị thế, tiềm lực khoa học công nghệ được tăng cường, ảnh hưởng và xếp hạng của ĐH Quốc gia Hà Nội trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam và quốc tế chắc chắn sẽ giữ vững, thậm chí tăng lên mạnh mẽ trong vài năm tới.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tin tưởng, Quyết định số 3688/QĐ-ĐHQGHN không những khả thi, mà còn đáp ứng mong mỏi bấy lâu nay của các thầy, cô giáo trong ĐH Quốc gia Hà Nội.
Theo thống kê của Ban Đào tạo, hiện quy mô NCS của ĐH Quốc gia Hà Nội là hơn 1.000 học viên. Trong số đó, có 350 NCS từ các ngành kỹ thuật - công nghệ; 90% trong số này đều có công bố quốc tế, đủ điều kiện để được nhận và duy trì học bổng. “Tôi tin tưởng nhờ quy định, nhiều NCS và tiến sĩ trẻ tụ hội về ĐH Quốc gia Hà Nội trong thời gian tới” - GS.TSKH Nguyễn Đình Đức quả quyết.
Cần nội lực và ngoại lực
Đề xuất, cần có chính sách trao học bổng cho người làm NCS, GS.TS Vũ Đình Lãm - Giám đốc Học viện Khoa học Công nghệ Việt Nam cho rằng: Nếu có học bổng, NCS sẽ chuyên tâm nghiên cứu để hoàn thành luận án chất lượng tốt; từ đó mới có cơ sở để đặt ra yêu cầu chất lượng đào tạo phải cao.
Lý giải về đề xuất của mình, GS.TS Vũ Đình Lãm nhấn mạnh: Đào tạo tiến sĩ là bậc đào tạo cao nhất trong hệ thống giáo dục đại học và tạo những nhà nghiên cứu, nguồn nhân lực khoa học công nghệ có trình độ cao. Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân dẫn đến số lượng NCS giảm trong thời gian gần đây, trong đó có nguyên nhân: “làm luận án tiến sĩ” ở nước ta hầu như không có học bổng, hoặc có nhưng rất thấp.
Do vậy, nhiều NCS phải vừa học, vừa làm để trang trải học phí. Ngoài ra, không ít NCS đã phải tự chi trả kinh phí để tiến hành các thí nghiệm, khảo sát. Trong khi đó, làm luận án tiến sĩ tại trường đại học ở các nước phát triển có nhiều thuận lợi như: Trang thiết bị hiện đại, đồng bộ, chính sách học bổng tốt sẽ thu hút người học từ Việt Nam.
Đồng quan điểm, PGS.TS Nguyễn Đắc Trung – Trường ĐH Bách khoa Hà Nội trao đổi: Cơ sở đào tạo nên xem xét NCS là những cán bộ làm khoa học, đóng góp cho sự phát triển theo hướng nghiên cứu của đơn vị và công bố khoa học trên các diễn đàn uy tín; từ đó nâng cao vị thế của đơn vị trên trường quốc tế.
Vì vậy, cơ sở đào tạo cần có chiến lược đầu tư như: Cấp học bổng cho NCS có thành tích nghiên cứu tốt; NCS được hưởng lương, thù lao từ hoạt động nghiên cứu, tham gia trợ giảng, hướng dẫn sinh viên, để bảo đảm cuộc sống tối thiểu của bản thân và yên tâm với công việc nghiên cứu. Mặt khác, NCS cần được tham gia thực hiện đề tài nghiên cứu của người hướng dẫn; hỗ trợ cho NCS chủ trì thực hiện đề tài nghiên cứu cấp cơ sở.
Bên cạnh chính sách học bổng, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đề xuất nên đầu tư trực tiếp và xứng tầm hơn nữa cho các nhóm nghiên cứu mạnh. Vì đó chính là tế bào trong hoạt động đào tạo - nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của một cơ sở đại học.
Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu mạnh không chỉ thu hút NCS và các tiến sĩ trẻ, mà còn có điều kiện mời giáo sư đầu ngành từ nước ngoài về làm việc, cùng tham gia đào tạo và nghiên cứu, công bố các kết quả chung. Ngoài ra, cần tạo điều kiện cho các nhà khoa học Việt Nam trong nhóm nghiên cứu đi trao đổi, thực tập ở các phòng thí nghiệm, cơ sở đào tạo hàng đầu của nước ngoài.