Từ rất sớm trong lịch sử, người Việt đã sở hữu tri thức về hỏa khí. Tư liệu ghi lại từ thế kỷ XV đã nhắc đến câu chuyện Hồ Nguyên Trừng bị nhà Minh bắt sang Trung Quốc để chế tạo súng thần công, còn trước đó, năm 1390, tướng Trần Khát Chân đã dùng súng thần công bắn hạ vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga ngay trên sông.
Những dấu mốc này cho thấy Đại Việt đã làm chủ kỹ nghệ súng pháo trước phương Tây tới 200 năm, đồng thời chế tạo được súng hỏa mai nổi tiếng đến mức được gọi là “súng Giao Chỉ” từ năm 1479, trong khi châu Âu phải hơn một thế kỷ sau mới phổ biến loại súng tương tự.
Trên hành trình nghiên cứu lịch sử vũ khí và công nghệ chế tạo hỏa khí phương Tây, kỹ sư Vũ Đình Thanh – chuyên gia kỹ thuật quân sự, người từng thử nghiệm, phục dựng và đăng ký độc quyền sáng chế chất lỏng tự cháy theo mô tả trong sử liệu về thời Tây Sơn – đã phát hiện nhiều bằng chứng cho thấy Hoàng đế Quang Trung không chỉ là bậc chỉ huy kiệt xuất mà còn sở hữu khả năng sáng chế vượt thời đại.
Theo ông, từ cuối thế kỷ XVIII, quân đội Đại Việt đã chế tạo và sử dụng những loại vũ khí vượt trội hoàn toàn so với công nghệ quân sự phương Tây, đặc biệt là các công ty Đông Ấn – lực lượng từng có quân số, trang bị và sức mạnh ngang tầm những đế quốc lớn. Các công ty Đông Ấn của Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đều có quân đội riêng, đúc tiền riêng và tiến hành chiến tranh như một quốc gia. Họ kiểm soát những vùng thuộc địa rộng lớn từ Ấn Độ đến châu Phi, châu Mỹ; lực lượng Công ty Đông Ấn Anh thậm chí có quân số gấp đôi quân đội Hoàng gia Anh.
Thế nhưng, theo sử Nguyễn, trong những trận đối đầu giữa quân Tây Sơn và liên quân các công ty Đông Ấn năm 1782–1783, dù phương Tây huy động tới 3–5 vạn quân cùng tàu đồng, pháo lớn, lựu đạn và vũ khí tốt nhất thời bấy giờ, toàn bộ đội hình vẫn tan vỡ khi gặp phải hỏa lực phốt pho của Đại Việt. Những chỉ huy như Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh cùng lực lượng lính đánh thuê đều không thể trụ vững và buộc phải rút chạy.
Kỹ sư Vũ Đình Thanh cho biết bí mật lớn nhất trong ưu thế hỏa khí của Đại Việt nằm ở công nghệ sản xuất phốt pho và nguồn diêm tiêu – nguyên liệu chủ lực của thuốc súng đen – vốn cực kỳ khan hiếm và đắt đỏ. Người Việt sở hữu lợi thế thiên nhiên với lượng phân dơi dồi dào, trong khi đến hết thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phương Tây vẫn phải phụ thuộc nguồn diêm tiêu từ Đông Nam Á.
Tư liệu của Viện Nghiên cứu Chiến lược Pháp cho biết cuối thế kỷ XVII – đầu XVIII, mỗi kg phân dơi có giá gần 0,4kg vàng. Đến khi người châu Âu phát hiện nguồn phân dơi ở phía đông Ấn Độ và chiếm gần như toàn bộ tiểu lục địa, họ mới kiểm soát được tới 70% lượng diêm tiêu cần thiết.
Riêng Pháp, sau cách mạng, thông qua hệ thống công ty Đông Ấn tái cơ cấu, đã tổ chức lực lượng viễn chinh quy mô lớn để thâu tóm nguồn diêm tiêu từ Campuchia, Lào đến Việt Nam; chính lượng diêm tiêu lấy từ Đông Dương đã trở thành bệ đỡ cho sức mạnh pháo binh giúp Napoleon liên tiếp chiến thắng ở châu Âu.
Từ các ghi chép sử học về hỏa cầu, hỏa hổ và hiện vật hỏa cầu Tây Sơn, KS. Thanh phục dựng và mô tả đây là dạng vũ khí phốt pho cực nóng, có thể đạt đến 2000°C, gây bỏng “như thò tay vào vạc dầu” và nhanh chóng triệt tiêu oxy khiến đối phương chết ngạt trong tích tắc – đúng như sử Thanh mô tả về cái chết của 5.000 quân Sầm Nghi Đống. Hỏa cầu phốt pho có thể được ném từ mình voi, bắn bằng súng thần công hoặc phóng bằng hỏa tiễn; hỏa hổ phun ra hỗn hợp nhựa thông trộn phốt pho cũng tạo thành ngọn lửa tự cháy và không thể dập tắt, đúng như mô tả trong sử Nguyễn: “trúng phải đâu, lập tức bốc cháy”. Những công nghệ này, theo KS. Thanh, vượt xa khả năng của phương Tây thời điểm đó.
Tuy nhiên, sự phát triển vượt trội của hỏa khí phốt pho cũng đặt ra rủi ro lớn cho chính quân đội Tây Sơn. Do chưa giải quyết được vấn đề an toàn khi gia công phốt pho, nhiều tướng lĩnh, chỉ huy, nhân công và thậm chí vua Quang Trung cùng các hoàng thân được cho là đã tử vong vì nhiễm độc phốt pho, khiến dây chuyền sản xuất bị gián đoạn. Đây là nguyên nhân mà KS. Thanh cho rằng đã khiến liên quân các công ty Đông Ấn có cơ hội phục hồi và giành ưu thế sau này.
Những phục dựng và thử nghiệm của KS. Thanh đã được các chuyên gia vũ khí trong tập đoàn công nghiệp hàng không quốc tế kiểm chứng. Ông đã áp dụng hỏa dược Tây Sơn vào động cơ đốt trong, tên lửa hiện đại và đăng ký độc quyền sáng chế liên quan đến loại chất cháy “không thể dập tắt” mà sử Nguyễn từng ghi nhận.
Kết luận về việc quân Tây Sơn sử dụng vũ khí phốt pho cũng được Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu – Viện sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng – đối chiếu với thực tiễn chiến trường và xác nhận là phù hợp. Dù cần thêm khảo cứu và bằng chứng để hoàn thiện bức tranh lịch sử, những phát hiện này mở ra hướng tiếp cận mới về thời đại Quang Trung, nơi sức mạnh quân sự không chỉ đến từ tài thao lược mà còn từ nền tảng khoa học – công nghệ vượt trội. Việc tiếp tục nghiên cứu, phục dựng và làm sáng rõ những giá trị ấy cũng là cách tri ân tiền nhân và khơi dậy tinh thần tự cường trong thời đại mới, nơi tri thức và sáng tạo tiếp tục là nền tảng quan trọng cho độc lập và phát triển quốc gia.