Tham gia chương trình có các khách mời:
Luật gia Nguyễn Huy Bằng - Chi hội trưởng Chi hội Luật gia Bộ Giáo dục và Đào tạo.
TS Trần Đình Lý - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.
TS Lê Việt Thủy - Giám đốc Trung tâm Ứng dụng CNTT, Thư ký Đề án tự chủ ĐH, Trường ĐH Kinh tế quốc dân.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học (Luật số 34) và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ có nhiều quy định quan trọng hướng tới tăng quyền tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Các quy định tập trung 4 nhóm nội dung lớn: Mở rộng phạm vi tự chủ; đổi mới quản trị đại học; đổi mới quản lý đào tạo; đổi mới quản lý nhà nước. Ngoài ra, một trong những điểm nhấn quan trọng của Luật số 34 là quy định về Hội đồng trường theo hướng thực quyền.
Đây được coi là bước tiến mới trong tự chủ đại học. Theo đó, việc hoàn thiện hệ thống văn bản là yêu cầu bắt buộc, đồng thời là việc quan trọng để đổi mới quản trị, thực hiện tự chủ mạnh mẽ trong nhà trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một số trường còn lúng túng trong triển khai nên kết quả chưa được như mong muốn.
Bạn đọc quan tâm đến vấn đề này, có thể gửi câu hỏi tới các khách mời theo form dưới đây, hoặc gửi email của Báo Giáo dục và Thời đại: gdtddientu@gmail.com, hoặc tương tác qua facebook của Báo www.fb.com/giaoducthoidai. Các chuyên gia của Chương trình sẽ chia sẻ và giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của quý bạn đọc!
TS Trần Đình Lý
Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
TS Lê Việt Thủy
Giám đốc Trung tâm Ứng dụng CNTT, Thư ký Đề án tự chủ ĐH, Trường ĐH Kinh tế quốc dân
Luật gia Nguyễn Huy Bằng
Chi hội trưởng Chi hội Luật gia Bộ Giáo dục và Đào tạo
TS Lê Việt Thủy
Qua quá trình thực hiện tự chủ, chúng tôi xin chia sẻ một số bài học để việc triển khai đề án tự chủ đại học được thành công.
Đầu tiên là cần đẩy mạnh công tác truyền thông, vì khi thực hiện đề án tự chủ nghĩa là mang đến rất nhiều sự thay đổi, không chỉ với xã hội, người học mà ngay cả với bản thân cán bộ, giảng viên trong trường. Giai đoạn đầu tự chủ là giai đoạn gặp rất nhiều khó khăn vì có nhiều sự thay đổi. Do đó, cần truyền thông đến mọi người để tất cả cùng đoàn kết nhìn về một hướng, khắc phục khó khăn ban đầu, hướng tới thành công trong tương lai.
Lãnh đạo nhà trường cũng cần phải có những cam kết cụ thể theo từng mốc thời gian để gây dựng lòng tin với xã hội và cán bộ, giảng viên nhà trường. Ví dụ: đối với người học, cần hướng tới tỷ lệ sinh viên có việc làm cao và thu nhập tốt sau khi ra trường. Đối với giảng viên, cần có những chính sách tạo động lực, cam kết về các quyền lợi và mức thu nhập hằng năm…
Bài học tiếp theo chính là việc đa dạng hóa các ngành đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội và làm tốt công tác tư vấn tuyển sinh. Sau 5 năm thực hiện tự chủ, Trường ĐH Kinh tế quốc dân đã mở mới gần 20 ngành và chương trình đào tạo. Các chương trình này đều là những lĩnh vực mới của nền kinh tế, hoặc những ngành đào tại liên ngành, xuyên ngành đáp ứng cho nhu cầu nền công nghiệp 4.0; ví dụ: ngành Khoa học dữ liệu; ngành Logistics và quản lý chuỗi cung ứng; ngành Kinh doanh số; ngành Thương mại điện tử; ngành Đầu tư tài chính; ngành Công nghệ ngân hàng (Fintech); ngành Phân tích kinh doanh (BA); hoặc một số ngành tích hợp các chứng chỉ của các hiệp hội nghề nghiệp thế giới, tạo điều kiện của sinh viên dễ dàng làm việc trên phạm vi toàn cầu. Những ngành này đa số đào tạo bằng tiếng Anh với chương trình đào tạo được nhập khẩu từ nước ngoài với mức học phí cao, nhưng luôn thu hút được số lượng người học rất đông.
Nhà trường cũng tăng cường đầu tư và thu hút các nguồn lực cho hoạt động nghiên cứu khoa học; đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích giảng viên nghiên cứu và xuất bản trên các tạp chí quốc tế có uy tín. Ví dụ, mỗi bài báo quốc tế khi được xuất bản đều được nhà trường thưởng từ 10-15 triệu…Gần đây, với sự tài trợ của ngân hàng Vietcombank, mỗi đề tài của sinh viên khi đạt giải nhất nghiên cứu khoa học cấp trường cũng được thưởng 10 triệu. Vì vậy, năm 2020 nhà trường có 15% số sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học, với 245 đề tài được trao thưởng; trong đó có 15 đề tài được xét giải thưởng nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
Nhà trường đẩy mạnh thành lập các hội cựu sinh viên, học viên và thu hút nguồn tài trợ từ các cựu sinh viên, học viên, nhằm xây dựng các quỹ học bổng cho người học và đầu tư cải thiện cơ sở vật chất cho nhà trường. Trung bình mỗi năm, hội cựu sinh viên đã đóng góp và tài trợ cho các hoạt động của nhà trường khoảng 10 tỷ đồng.
Về nhân sự, nhà trường có nhiều chính sách thu hút các giảng viên có uy tín trong nước và nước ngoài đến giảng dạy. Thường xuyên mời các chuyên gia từ các doanh nghiệp, tổ chức bên ngoài đến trường trao đổi kinh nghiệm và cùng giảng dạy. Thông thường mỗi môn học chuyên ngành sẽ có ít nhất 1 buổi mời các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên sâu đến chia sẻ cùng sinh viên. Mỗi sinh viên sẽ được đi thực tế ít nhất 2 lần trong toàn khóa học, không kể việc đi thực tập cuối khóa. Từ đó nâng cao kỹ năng và trải nghiệm thế giới việc làm cho sinh viên...
Bạn Tưởng Linh – Hà Nội:
Luật gia Nguyễn Huy Bằng
Tôi không có đầy đủ thông tin chính thức và cũng không đủ thẩm quyền đánh giá chung. Từ những thông tin cá nhân có được, tôi thấy việc triển khai thực hiện tự chủ sau khi có Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GD đại học, đặc biệt sau khi có Nghị định 99, đã có những chuyển động khá tích cực.
Hầu hết các trường đã hình thành Hội đồng trường theo tinh thần mới của Luật. Bước đầu triển khai đổi mới quản trị nhà trường, tách chức năng Hội đồng trường với chức năng của Hiệu trưởng. Nhiều trường đã kiện toàn cơ cấu tổ chức, tập trung xây dựng hệ thống văn bản nội bộ theo yêu cầu của Luật. Có thể kể ra một số trường như: ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Kinh tế quốc dân, Học viện Nông nghiệp, ĐH Sư phạm TP. HCM, ĐH Nha Trang... Khối các trường tư thục cũng có chuyển động tốt như: Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, ĐH Duy Tân,...
Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy còn không ít khó khăn cần phải nhìn thẳng vào để tiếp tục đổi mới, tăng cường tự chủ quyết liệt hơn, hiệu quả hơn. Có thể kể ra một số khó khăn sau:
- Nhận thức, tâm lý, thói quen quản lý kiểu cũ còn khá nặng nề cả từ một số lãnh đạo trường cho đến cán bộ, nhân viên.
- Hệ thống văn bản tác động vào các trường ĐH còn thiếu đồng bộ, Nghị định về tự chủ chưa được ban hành.
- Mô hình mới, cách làm mới đòi hỏi sự sáng tạo nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro, có thể làm nhiều cơ sở GD đại học băn khoăn mà ĐH Tôn Đức Thắng là một ví dụ khá điển hình.
Tôi tin rằng, nếu các cơ quan quản lý Nhà nước tiếp tục quan tâm sát sao, tạo điều kiện cho một số cơ sở thí điểm làm những việc chưa có tiền lệ nhưng đã chứng tỏ hiệu quả xã hội tiếp tục triển khai; Lãnh đạo các trường dũng cảm đổi mới tư duy, có kế hoạch đổi mới cụ thể, phù hợp để huy động toàn trường vào cuộc thì chắc chắn Luật GD đại học sẽ đi vào cuộc sống, tự chủ của các trường sẽ phát triển, chất lượng GD đại học sẽ được nâng cao.
Bạn Mạnh Hà – Hải Phòng:
Luật gia Nguyễn Huy Bằng
Đổi mới GD đại học nói chung và thực hiện tự chủ GD đại học nói riêng là một quá trình cần được triển khai đồng bộ, căn cơ, có lớp lang chứ không thể tuỳ hứng "tiện đâu làm đấy". Vì vậy, cùng với việc định hướng rõ, hình thành hệ thống tổ chức phù hợp thì việc hoàn thiện hệ thống văn bản nội bộ là vô cùng quan trọng.
Luật GD đại học và Nghị định 99 cũng đề cập trực tiếp đến việc hoàn thiện hệ thống văn bản nội bộ của các trường ở nhiều điều khoản cụ thể. Tôi đếm sơ bộ thấy, có tới 18 điểm trong Luật và 9 điểm trong Nghị định 99 đề cập đến việc cụ thể hóa Luật và Nghị định trong quy chế tổ chức và hoạt động của trường.
Thời gian qua, một số anh em bạn bè ở các trường có trao đổi và nhờ tôi tư vấn để triển khai vấn đề này. Thực tế, đúng là nhiều trường còn lúng túng, chậm ban hành các văn bản nội bộ. Thậm chí, đến thời điểm này, sau 8 tháng Nghị định 99 có hiệu lực và 16 tháng Luật có hiệu lực mà vẫn còn không ít trường chưa ban hành được quy chế tổ chức và hoạt động. Quy chế tài chính là văn bản bắt buộc phải ban hành cũng đang là vấn đề nhiều trường lúng túng.
Tôi xin gợi ý một số điểm từ kinh nghiệm cá nhân để giúp các trường thuận lợi hơn trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản nội bộ:
- Trước hết, lãnh đạo các trường cần nâng cao nhận thức về vị trí vai trò của hệ thống văn bản nội bộ và trực tiếp chỉ đạo việc hoàn thiện.
- Nhiều nơi thành lập ban chỉ đạo cấp trường, kiện toàn bộ phận pháp chế, xây dựng kế hoạch chung thì việc triển khai hoàn thiện khá thuận lợi (thường thì cần cập trung quyết liệt trong khoảng 1 năm mới có thể ban hành được các văn bản cơ bản).
- Trên cơ sở kế hoạch chung đó, tổ chức rà soát, đánh giá các văn bản hiện có để xem còn thiếu văn bản nào, văn bản nào đã có nhưng cần sửa đổi bổ sung cho phù hợp, văn bản nào cần ghép lại cho bớt tản mạn, văn bản nào cần huỷ bỏ.
- Sau đó sẽ đưa vào kế hoạch soạn thảo từng văn bản theo thứ tự ưu tiên. Trước hết là các văn bản giúp hình thành, kiện toàn hệ thống tổ chức của trường, cơ chế hoạt động chung.
- Việc soạn thảo các văn bản cần giao cho các đơn vị chuyên môn của trường phụ trách. Đơn vị chủ trì cần nghiên cứu các quy định cấp trên; đánh giá thực tiễn của nhà trường để đề xuất ý tưởng, xây dựng đề cương, dự thảo văn bản lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức cá nhân có liên quan.
- Trường cũng cần tổ chức thẩm định, thông qua ban hành. Lưu ý việc hoàn thiện văn bản không chỉ chú trọng tới từng văn bản mà phải quan tâm đến tính hệ thống; Bên cạnh văn bản quy định về nội dung cần chú trọng cả các văn bản quy định về trình tự thủ tục.
Bạn Thaonguyenvan@...com:
TS Trần Đình Lý
Tự chủ đại học có nhiều ưu việt, giúp các trường đại học tháo gỡ được nhiều vướng mắc về quản lý nhà nước, về hoạt động của nhà trường. Cần hiểu đúng và trúng bản chất, tự chủ đại học là cơ hội để nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Quyền tự chủ đại học rất quan trọng, được thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của Luật như Hội đồng trường, Hiệu trưởng, Hội đồng quản trị, của cơ sở giáo dục, chương trình giáo dục, tuyển sinh, văn bằng, học phí, lệ phí tuyển sinh…
Khi áp dụng cơ chế tự chủ, trường đại học sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn từ việc đầu tư nghiên cứu khoa học đến thay đổi chương trình đào tạo và khẳng định thương hiệu.
Tự chủ Đại học là gắn liền với trách nhiệm nên mỗi trường sẽ tự lựa chọn cho mình một hướng đi phù hợp để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trường Đại học Nông lâm TP.HCM có sự gắn kết với các tập đoàn doanh nghiệp lớn và cộng hưởng rất tốt trong qua trình tự chủ và phát triển.
Tự chủ đại học và tự chịu trách nhiệm thực sự là một con đường để cơ sở giáo dục thúc đẩy học thuật, nghiên cứu khoa học, quản lý tài chính, và trong quản trị đại học. Tự chủ đại học cũng chính là thúc đẩy sự năng động và sự phát triển của từng cá nhân và kéo theo đó là sự vững mạnh của cơ sở giáo dục đại học.
Cơ chế tự chủ đại học sẽ giúp nhà trường chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong các hoạt động. Khi chuyển sang tự chủ hoàn toàn, trường đại học đó sẽ chuyển sang phương cách đánh giá bằng chất lượng uy tín, thương hiệu, có khả năng thu hút được sinh viên và có những chế độ chính sách miễn học phí cho sinh viên.
Vì khi tự chủ các trường đại học tự chủ tài chính, tự chủ về nguồn thu – chi, được thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, được ngưng mở ngành nào, quyết định mở thêm ngành nào để đào tạo theo nhu cầu của xã hội nếu như đáp ứng được điều kiện theo quy định.
Tự chủ đại học còn góp phần thúc đẩy sự phát triển nhiều hơn trong mỗi cá nhân của trường, giúp các thầy cô khơi dậy sức sáng tạo.
Bạn kimngan@gmail.com:
TS Lê Việt Thủy
Qua trao đổi với một số trường, lý do chủ yếu các trường chưa muốn thực hiện tự chủ, từ đó phải tự bảo đảm kinh phí hoạt động trong khi còn đang gặp những khó khăn nhất định trong việc thu hút người học.
Như vậy, để thúc đẩy các trường đại học chuyển sang cơ chế tự chủ, Nhà nước cũng như các cơ quan chủ quản của các trường này cần xây dựng các chính sách, đề án để hỗ trợ các trường trong những năm đầu, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, điều kiện cơ sở vật chất, trình độ nguồn nhân lực, từ đó trở thành 1 trường đại học có uy tín, thu hút được người học.
Có nhiều ví dụ cụ thể về các trường đại học với việc đầu tư và quản trị hiệu quả, chỉ sau 3-5 năm, đã bắt đầu gây dựng được uy tín, thu hút được nhiều người học.
Bạn Quế An – Hà Nội:
Luật gia Nguyễn Huy Bằng
Quan niệm trên là không đúng. Có quan điểm cho rằng, giao quyền tự chủ là việc Nhà nước giảm đầu tư tài chính cho GD đại học cũng không đúng. Bản chất của việc trao quyền tự chủ là việc chuyển cách thức quản lý Nhà nước từ kiểm soát, tiền kiểm sang kiến tạo, giám sát, hậu kiểm để bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả GD đại học như đã nói ở trên. Thực tế, vừa qua cho thấy, Nhà nước giao quyền tự chủ cho các trường đại học thì bên cạnh việc giảm nguồn chi thường xuyên nhưng vẫn tăng chi đầu tư, phát triển cho các trường.
Theo khoản 11 điều 4 của Luật GD đại học thì tự chủ là việc tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu của trường Đại học trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của trường. Tự chủ cũng có thể hiểu là tự vận hành, giảm xin - cho, chuyển từ quản lý mang tính áp đặt chủ quan sang quản trị theo nhu cầu khách quan. Tất nhiên, tự chủ phải gắn với trách nhiệm và tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát.
Bạn maihoa@gmail.com:
TS Lê Việt Thủy
Trong giai đoạn hiện nay, khi tự chủ đại học mới được triển khai, các văn bản dưới luật còn chưa đầy đủ, thì việc giao quyền tự chủ cho các trường đại học nên theo các mức khác nhau, tùy theo đặc điểm và điều kiện thực tế của từng trường. Tuy nhiên, mỗi cơ quan chủ quản và trường cần có lộ trình để tiến đến tự chủ ở mức cao nhất trong vòng 10 năm tới.
Bạn Nguyễn Thái Phương, Trường ĐH Gia Định:
TS Trần Đình Lý
Trường Đại học Nông lâm TP.HCM là trong số các trường kiện toàn bộ máy có tổ chức hội đồng trường sớm nhất, đặc biệt sau khi có Luật GD Đại học. Cùng với xu thế chung của các trường đại học lớn trong cả nước, Trường Đại học Nông lâm TP.HCM đang tự chủ một phần.
Trường đào tạo đa ngành đa lĩnh vực, nhưng thế mạnh và là truyền thống của trường là năng lực đào tạo nhóm ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp, được xã hội, các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nguồn nhân lực đánh giá rất cao.
Tuy nhiên, sinh viên của Nhà trường đa số đến từ vùng nông thôn, có hoàn cảnh khá khó khăn về kinh tế và ảnh hưởng không nhỏ đến công tác học tập, với nhóm ngành này mức trần học phí do nhà nước quy định. Đây là một khó khăn cho việc phát triển nghiên cứu khoa học công nghệ, hiện đại hóa cơ sở vật chất và thu hút, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho công tác đào tạo và quản lý sinh viên.
Đặc thù của Nhà trường đào tạo chuyên ngành kỹ sư phần lớn các môn học là thực hành, môn học liên quan Phòng thực hành, thực tập đòi hỏi kinh phí đầu tư trang thiết bị rất lớn. Nếu tự chủ tài chính thì buộc Nhà trường phải tăng học phí theo định mức kinh tế kỹ thuật tính (chi phí cho khối ngành/sinh viên đào tạo, mọi chi phí đều bắt người học đóng góp). Mức học phí rất cao.
Nguồn thu của trường hiện nay chủ yếu vẫn là từ học phí, trong khi đó mức trần học phí thường bị khống chế, đặc biệt là học phí nhóm ngành nông nghiệp thường thấp hơn so với các ngành khác.
Vì vậy, để tăng nguồn thu trường phải tăng quy mô đào tạo. Cần có cơ chế để tăng các nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa học công nghệ và dịch vụ hỗ trợ, tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong và ngoài nước.
Bạn Bình An - Thái Nguyên:
Luật gia Nguyễn Huy Bằng
Rất vui thấy bác đã nghỉ hưu những vẫn nặng lòng với giáo dục. Vấn đề bác nêu, tôi xin trả lời khái quát như sau: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GD đại học (2018) đã có những sửa đổi bổ sung khá cơ bản về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng trường theo hướng Hội đồng trường thực quyền hơn, phản ánh đúng tinh thần Hội đồng trường là tổ chức quyền lực cao nhất của trường theo tinh thần Nghị quyết 19 của Đảng.
Cụ thể: Tại Khoản 2 điều 16 của Luật đã quy định nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng trường công lập; Khoản 2 điều 17 của Luật đã quy định nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng trường tư thục, theo đó, Hội đồng trường công lập cũng như Hội đồng trường tư thục tuy có chút ít khác nhau về nhiệm vụ quyền hạn nhưng đều có 10 nhóm nhiệm vụ uyền hạn.
Trong đó, 9 nhóm nhiệm vụ và quyền hạn Hội đồng trường có quyền quyết định, một nhóm nhiệm vụ Luật giao cho Hội đồng trường quy định cụ thể trong quy chế tổ chức hoạt động của trường.
Nếu để ý rằng, Luật GD đại học 2012 chỉ quy định Hội đồng trường có thẩm quyền thông qua 5 nhóm vấn đề thì quy định trong Luật 2018 đã có bước tiến dài đối với vấn đề này. Các quy định cụ thể xin bác đọc giúp tại Điều 16,17 của Luật.
Chúc bác sức khỏe!
Bạn tuanvinh@gmail.com:
TS Lê Việt Thủy
Ngay trong các quy định về tự chủ luôn có các quy định rất cụ thể về trách nhiệm giải trình của các trường đại học.
Tại Trường ĐH Kinh tế quốc dân, trách nhiệm giải trình luôn được đề cao. Nhà trường định kỳ thực hiện 3 công khai: Công khai và cam kết chất lượng đào tạo, chuẩn đầu ra; mức thu học phí; điều kiện cơ sở vật chất…
Các báo cáo 3 công khai này đều được đăng tải trên cổng thông tin điện tử để xã hội xem và giám sát.
Hằng năm, tại Đại hội cán bộ công nhân viên chức, Quy chế thu chi nội bộ của nhà trường đều được công khai và tiếp nhận các ý kiến đóng góp sửa đổi và thông qua đối với toàn thể cán bộ, giảng viên nhà trường.
Nhà trường cũng định kỳ và thường xuyên mời các công ty kiểm toán độc lập thực hiện công tác kiểm toán để bảo đảm hoạt động của nhà trường tuân thủ các quy định của pháp luật.
Trường ĐH Kinh tế quốc dân cũng thực hiện đầy đủ việc báo cáo định kỳ đối với cơ quan quản lý có thẩm quyền và kịp thời giải trình với tất cả yêu cầu của các cơ quan quản lý, thanh tra, kiểm tra…
Nhà trường cũng đã bước đầu công khai các chỉ số liên quan đến trách nhiệm giải trình, như: tỷ lệ sinh viên có việc làm, mức lương trung bình của sinh viên sau khi ra trường, số chương trình được kiểm định, số lượng và danh mục các xuất bản quốc tế…
Bạn anhkhang@gmail.com:
Luật gia Nguyễn Huy Bằng
Trước hết phải nói rõ rằng, trong Luật GD đại học không đưa ra khái niệm người đứng đầu cơ sở GD đại học một cách trực tiếp mà chỉ có khái niệm Chủ tịch Hội đồng trường, Hiệu trưởng. Thực tế hiện nay một số trường cũng hỏi tôi, người đứng đầu cơ sở GD đại là ai? Tôi suy nghĩ như sau:
Mặc dù Luật GD đại học không nêu trực tiếp nhưng trong các văn bản về cán bộ, công chức, viên chức của nước ta dùng khái niệm "người đứng đầu cơ quan đơn vị" khá nhiều. Tôi có đọc một số văn bản của Bộ GD&ĐT cũng dùng khái niệm này.
Ví dụ như: Thông tư số 21/2019/TT-BGDĐT quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở GD đại học trong việc quản lý văn bằng chứng chỉ của trường; Thông tư số 11/2020/TT-BGDĐT hướng dẫn thực hiện Nghị định số 04/2005/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong cơ sở GD đã sử dụng khái niệm Hiệu trưởng trên cơ sở chuyển khái niệm người đứng đầu cơ quan đơn vị trong Nghị định 04.
Các nhiệm vụ của người đứng đầu cơ sở GD trong Thông tư 21 gắn với trách nhiệm hiệu trưởng theo quy định của pháp luật. Như vậy có thể hiểu người đứng đầu cơ sở GD Đại học là Hiệu trưởng hoặc Giám đốc.
Luật GD đại học đã có định hướng đổi mới quản trị cơ sở GD đại học bằng một loạt quy định cụ thể. Theo đó, Hội đồng trường là tổ chức quản trị có thẩm quyền cao nhất trong trường, làm việc theo cơ chế tập thể. Hiệu trưởng là người đại diện theo pháp luật, là chủ tài khoản của trường (trừ trường hợp trường tư thục có quy định khác).
Hiệu trưởng là người quản lý tổ chức hoạt động thường xuyên của trường, thực hiện nhiệm vụ theo cơ chế thủ trưởng. Vì vậy, những giá trị cốt lõi cần có của Hiệu trưởng phải là phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao, quyết đoán, có khả năng phản ứng nhanh với những thay đổi và đương nhiên phải là người dám chịu trách nhiệm với kết quả cũng như những rủi ro trong quá trình thực hiện tự chủ (nếu có).
Bạn sontung@gmail.com:
TS Lê Việt Thủy
Thực tế của Trường ĐH Kinh tế quốc dân khi thực hiện tự chủ đại học không gặp khó khăn lớn nào. Đối với một số vướng mắc, Trường đã kịp thời xin ý kiến của cơ quan chủ quản và các cơ quan hữu quan khác.
Ví dụ, đối với tổ chức bộ máy, Trường mong muốn được tự xây dựng và thực hiện thang bảng lương riêng mà không phải tuân thủ hệ thống thang bậc lương hiện hành đối với các ngạch bậc của Nhà nước quy định.
Trong khi chờ được cho phép thực hiện như vậy, Trường đã chủ động xây dựng Đề án việc làm và Quy chế thu chi nội bộ để có thể trả lương xứng đáng cho cán bộ, giảng viên, nhằm thu hút và tạo động lực cho đội ngũ nhân lực chất lượng cao.
Bạn Nguyễn Thùy Dương (Hà Nội):
TS Trần Đình Lý
Tự chủ đại học - trách nhiệm giải trình của nhà trường và vấn đề Hội đồng trường có mối quan hệ biện chứng. Khi nhà trường được trao thẩm quyền và mức tự chủ lớn, thì vấn đề tất yếu đặt ra là cơ chế nào và ai kiểm soát “thực thi quyền lực” và giám sát kết quả - chất lượng hoạt động của nhà trường?
Chúng ta dễ thấy tính chất đặc thù của hệ thống giáo dục đại học, cơ chế đó chính là đổi mới quản lý nhà nước và sự tham gia giám sát của xã hội, gắn với chế định rõ trách nhiệm giải trình của các trường.
Khi đó trách nhiệm giải trình là một vấn đề mang tính pháp lý quan trọng để kiểm soát thực thi quyền lực và giám sát hoạt động của nhà trường. Tự chủ đại học gắn với Hội đồng Trường như là sự đương nhiên, mặc dù Hội đồng Trường đã được chế định trong Luật giáo dục Đại học, nhưng trên thực tế mới có rất ít trường đại học có Hội đồng Trường đúng nghĩa, đặc biệt, uy tín, tầm ảnh hưởng của người đứng đầu cũng như các thành viên sẽ tác động rất lớn đến vai trò của Hội đồng Trường.
Để các thành viên không xem đó là vấn đề hình thức. Hơn nữa hoạt động của một số Hội đồng Trường hiện nay đang bộ lộ những bất cập, hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Có nơi có thực quyền nhưng thực sự không có thực lực, sẽ khó thuyết phục cả hệ thống chính quyền.
Ở đây có vấn đề về nhận thức, có vấn đề về quy định còn có những nội dung chưa phù hợp và đồng bộ, có vấn đề về tổ chức thực hiện… Thậm chí, trong thời gian quá độ, có không ít ý kiến cho rằng Hội đồng Trường là không cần thiết, vì nó có những nhiệm vụ trùng lắp, không rõ ràng và có nơi còn xem như là sự cản trở việc thực thi nhiệm vụ của Ban giám hiệu (Hiệu trưởng - BGH).
Một số cơ sở giáo dục thí điểm tự chủ khá thành công. Nhưng trong thời gian thí điểm, cũng có những cơ sở "chưa thực sự hiểu nhau" giữa các tổ chức, làm ảnh hưởng không tốt đến hệ thống. Đặc biệt, nếu người đứng đầu có tâm có tầm, có uy tín, vì lợi ích chung thì sẽ rất thuận lợi cho sự phát triển.
Bạn anhngoc@gmail.com:
TS Lê Việt Thủy
Một khó khăn điển hình của các trường tự chủ là việc sử dụng tài sản của mình để thực hiện các hoạt động nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Ví dụ, hiện các trường không được phép sử dụng tài sản công để có thể huy động vốn để đầu tư cho phát triển… Hy vọng trong thời gian tới, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan quản lý sẽ sớm sửa đổi hoặc có các hướng dẫn để các trường có thêm nhiều quyền trong việc sử dụng nguồn lực của mình một cách hiệu quả.
Bạn viettrang@gmail.com:
Luật gia Nguyễn Huy Bằng
Tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm này. Cũng cần phải nói thêm, tự chủ không phải chỉ là việc giảm sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước đối với cơ sở GD đại học mà tự chủ thực chất nhằm giải phóng năng lực tiềm tàng của tất cả các trường, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học.
Bạn phuonglinh@gmail.com:
TS Lê Việt Thủy
Đến nay, sau khi có Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật giáo dục ĐH và Nghị định 99 hướng dẫn thi hành Luật, cơ bản khung pháp lý cho hoạt động tự chủ đại học đã được coi là khá đầy đủ. Tuy nhiên, một số nội dung được điều chỉnh bởi các luật khác thì chưa được sửa đổi, như Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách… Nhưng với việc Hội đồng trường trao quyền nhiều hơn, các trường hoàn toàn có thể chủ động xây dựng cho mình một chiến lược và kế hoạch để triển khai hoạt động tự chủ.
Bạn khanhha@gmail.com:
Luật gia Nguyễn Huy Bằng
Chào bạn. Về vấn đề bạn hỏi, tôi xin trả lời như sau:
Hệ thống pháp luật Việt Nam gồm nhiều văn bản do các cơ quan khác nhau ban hành hoặc một cơ quan ban hành vào nhiều thời điểm khác nhau. Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện theo nguyên tắc: Văn bản quy định về cùng một vấn đề mà có nội dung khác nhau thì áp dụng văn bản của cơ quan có thẩm quyền cao hơn. Văn bản của một cơ quan ban hành mà có nội dung khác nhau thì áp dụng văn bản được ban hành sau.
Luật GD đại học cũng được áp dụng trên tinh thần đó. Ở đây cần nói rõ thêm, cơ sở GD đại học gồm cơ sở công lập và tư thục. Hai loại hình này đều yêu cầu về chuyên môn, chất lượng đào tạo như nhau nhưng cách áp dụng luật, nhất là với vấn đề tổ chức nhân sự, tài chính tài sản có nhiều điểm khác nhau. Cơ sở tư thục có quyền tự chủ cao về các vấn đề này. Cơ sở GD đại học công lập là một loại hình đơn vị sự nghiệp công lập nên trong quá trình tổ chức hoạt động không chỉ phải thực hiện theo Luật GD đại học mà còn phải tuân theo một số văn bản luật liên quan khác như: Luật viên chức, Luật ngân sách nhà nước, Luật quản lý và sử dụng tài sản công,... Việc quản lý cán bộ viên chức của cơ sở GD đại học công lập còn phải theo các quy định của Đảng. Trong Nghị định 99 cũng đã nói rõ vấn đề này.
Bạn minhhang@gmail.com:
TS Lê Việt Thủy
Thực tế trong mấy năm vừa qua, khi các trường bắt đầu thí điểm tự chủ theo Nghị quyết 77, học phí của những trường này đều tăng, nhưng đều nằm trong giới hạn trần học phí mà Nghị định 86 của Nhà nước cho phép. Tuy nhiên, hầu như các trường đều có lộ trình tăng từng bước và chỉ tăng với những sinh viên khóa mới.
Ngoài ra, mức học phí của các trường cũng đều được xác định trên cơ sở đánh giá khả năng đáp ứng của gia đình và bản thân sinh viên. Bên cạnh đó, mỗi trường đều có những quỹ học bổng, cũng như chính sách hỗ trợ học phí cho những sinh viên khó khăn; hoặc giúp đỡ để sinh viên được quyền sử dụng tín dụng sinh viên. Đây chính là chính sách để bảo đảm sự tiếp cận giáo dục đại học của tất cả mọi người.
Cũng cần nói thêm về lý do tăng học phí. Trước đây, mức học phí được xác định trên cơ sở nhà nước tài trợ phần chi sự nghiệp và chi thường xuyên, cũng như chi đầu tư cơ sở vật chất cho các trường. Khi bắt đầu tự chủ, các trường phải tự bảo đảm phần kinh phí của mình, vì vậy những chi phí này sẽ từng bước được tính vào học phí; nên mức học phí so với trước khi tự chủ sẽ có sự gia tăng nhất định.
Một lý do khác trong gia tăng học phí là các trường gia tăng đầu tư cho nâng cao chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất và chất lượng phục vụ cho người học.
Qua khảo sát các trường, sau khi được tự chủ, các trường đã có chuyển biến mạnh mẽ về kiểm định chương trình đào tạo; đầu tư nâng cao chuẩn đầu ra ngoại ngữ, tin học, cũng như trang bị nhiều hơn các kỹ năng mềm cho người học. Nhiều trường đã đưa vào sử dụng các tòa nhà mới với trang thiết bị hiện đại, tiệm cận với chuẩn quốc tế; từ đó tạo môi trường học tập tốt hơn so với trước khi tự chủ.
Từ thực tế của Trường ĐH Kinh tế quốc dân, từ khi được Thủ tướng cho phép thí điểm đề án đổi mới hoạt động theo cơ chế tự chủ, số lượng học sinh và nguyện vọng đăng ký vào trường tăng đều qua các năm. Điểm chuẩn được duy trì ở mức cao.
Đặc biệt, đối với các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh theo các chuẩn quốc tế với mức học phí cao luôn có số lượng sinh viên đăng ký rất đông. Khảo sát sơ bộ những sinh viên năm thứ nhất sau khi vào trường, đều cho rằng mức học phí của nhà trường là hoàn toàn chấp nhận được; nhất là khi chính sinh viên so sánh với mức kinh phí mà gia đình bỏ ra cho sinh viên đi học tại trung học phổ thông.
Ngoài ra, theo một nghiên cứu quốc tế, mức học phí được người học chấp nhận tối đa sẽ bằng 50% thu nhập hàng tháng của sinh viên sau khi ra trường. Qua các khảo sát sinh viên tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân, thì mức lương của các em thường dao động từ 6-8 triệu đồng/tháng.
Bạn Ngọc Bích (Hải Dương):
TS Trần Đình Lý
Vướng mắc đầu tiên và có thể xuyên suốt là do chưa thực sự quyết tâm quyết liệt từ nhiều phía, nhiều cấp. Vẫn còn đâu đó chưa hiểu hết ý nghĩa của việc trường được tự chủ là cả về tổ chức, nhân sự, tài chính tài sản, đào tạo, hoạt động khoa học công nghệ, đảm bảo chất lượng, hợp tác quốc tế.
Khá nhiều người chỉ nghĩ đơn thuần tự chủ đại học là tự chủ tài chính. Chỉ khi thoát ra khỏi “tư tưởng nhỏ lẻ” này thì hệ thống mới chạy theo con đường và là xu thế tự chủ được.
Lực cản thứ hai, cũng do “suy nghĩ chưa tới” đó là nếu tự chủ thì sẽ mất nguồn đầu tư từ phía nhà nước, sẽ không còn tiền hoặc số tiền tự làm ra sẽ không đủ để hoạt động. Họ chưa nghĩ xa hơn rằng: khi tự chủ đồng nghĩa với sự tự chịu trách nhiệm cao hơn, tất cả các hoạt động sẽ phải cân nhắc hiệu quả, thậm chí đột phá để đổi mới tư duy, không theo lối mòn, tự chủ sẽ không còn quá phụ thuộc vào những quy định lỗi thời, bất cập.
Chỉ khi nào hiểu được tự chủ đại học là “được” chứ không phải “bị” thì tư tưởng mới thoát ra để cùng nhau xây dựng phát triển tổ chức .
Sau một thời gian thực hiện tự chủ, từ thí điểm đến nhân rộng, cho thấy, tự chủ đại học mở ra rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít các khó khăn thách thức đối với các trường đại học. Vấn đề đặt ra là các trường đại học cần phải nỗ lực, thay đổi để đạt được các mục tiêu cũng như tồn tại và ngày càng phát triển.
Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục phải chịu trách nhiệm trong việc đáp ứng các tiêu chí chất lượng đào tạo theo quy định và công khai minh bạch, khẳng định được vị thế, thương hiệu của mình. Khi đã có uy tín thương hiệu, thì tự khắc người học, khách hàng của các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ.. sẽ đến và tài chính không còn là vấn đề lớn.
Bạn hungdung@gmail.com:
Luật gia Nguyễn Huy Bằng
Tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các cơ sở GD đại học nói riêng được Đảng và Nhà nước quan tâm từ lâu, được thể hiện qua nhiều Nghị quyết của Đảng và văn bản pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành.
Luật GD Đại học 2012 đã thể hiện nhiều nội dung cụ thể về tự chủ đại học. Đặc biệt, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GD Đại học năm 2018 đã có một bước tiến dài trong việc thể chế hoá những tư tưởng của Đảng về tự chủ đại học. Luật không những đã định nghĩa rõ quyền tự chủ là thế nào? Tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình thế nào? mà còn quy định điều kiện tự chủ, nội dung tự chủ, trách nhiệm của Nhà nước cũng như các cơ sở GD đại học trong triển khai tự chủ.
Cụ thể hoá Luật GD đại học, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2019 NĐCP quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật GD đại học, trong đó có đề cập đậm nét vấn đề tự chủ. Bộ GD&ĐT cũng đã và đang ban hành một loạt văn bản để triển khai tự chủ trên các mặt cụ thể. Có thể nói, các văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý để các cơ sở GD đại học bắt tay vào một cách quyết liệt, căn cơ hơn.
Bạn Linh Anh (Đồng Nai):
TS Trần Đình Lý
Theo tôi, tự chủ đại học cần được hiểu theo nghĩa rộng, chứ không chỉ là về tài chính. Mặc dù tài chính luôn là vấn đề rất quan trọng.
Tự chủ gồm 4 khía cạnh: Tự chủ về tổ chức, tự chủ về tài chính, tự chủ về học thuật và tự chủ về nhân sự. Tự chủ đại học có nhiều mặt ưu điểm như giúp các trường đại học tháo gỡ được nhiều vướng mắc về quản lý nhà nước, về hoạt động của nhà trường, quản lý của bộ chủ quản.
Tự chủ đại học là cơ hội tốt để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Tự chủ đại học được thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của Luật như Hội đồng trường, Hiệu trưởng, Hội đồng quản trị, của cơ sở giáo dục, chương trình giáo dục, tuyển sinh, văn bằng, học phí, lệ phí tuyển sinh… Về tự chủ tài chính, trường còn phụ thuộc nhiều vào nguồn thu học phí, trong khi các nguồn thu về chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp luật còn ít. Tự chủ tài chính là vấn đề quan trọng của tự chủ ĐH, nếu không đảm bảo về nguồn thu sẽ là thách thức lớn.
Trong bối cảnh tuyển sinh nhiều biến động, nguồn thu học phí nên hiểu là một phần, ở các nước phần này không quá lớn về tỷ lệ như ở Việt Nam. Nguồn thu từ các dịch vụ lẽ ra phải lớn hơn nhiều.
Bạn Vungocdu87...@gmail.com:
TS Trần Đình Lý
Về vấn đề này, theo tôi trước đây, khi thuật ngữ tự chủ đại học vừa mới chớm ra đời, có 2 luồng quan điểm trái ngược nhau về tự chủ là “được” hay “bị”? Hiện nay thì gần như đã tiệm cận về hướng và là xu thế “các trường sẽ được tự chủ”.
Khi được tự chủ và tự chịu trách nhiệm, các trường sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc đưa ra các chính sách khuyến khích đội ngũ (cả trực tiếp và gián tiếp) làm việc hiệu quả, đây là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo cũng như thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nhà trường.
Tự chủ đại học có nhiều mặt ưu điểm như giúp các trường đại học tháo gõ được nhiều vướng mắc về quản lý nhà nước, về hoạt động của nhà trường, quản lý của bộ chủ quản. Tự chủ đại học là cơ hội để nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Quyền tự chủ đại học được thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của Luật như Hội đồng trường, Hiệu trưởng, Hội đồng quản trị, của cơ sở giáo dục, chương trình giáo dục, tuyển sinh, văn bằng, học phí, lệ phí tuyển sinh…
Để xây dựng được cơ chế tự chủ đại học phù hợp – hiệu quả, cần phải nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề lý luận liên quan, nghiên cứu sâu và tiếp thu có luận chứng - có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, đồng thời rất quan trọng là phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nghiêm túc rút kinh nghiệm những mặt được và chưa được qua các mô hình đã và đang thực hiện, để trên cơ sở đó xây dựng các mô hình tự chủ đại học tốt hơn với bước đi phù hợp.
Bạn huudo@gmail.com: