Từ khai thác tự nhiên đến sinh kế xanh bền vững
Vườn quốc gia Xuân Thủy, tỉnh Ninh Bình mới (trước sáp nhập 3 tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, VQG Xuân Thủy nằm trên địa bàn huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định cũ) được bao bọc bởi hệ sinh thái rừng ngập mặn phong phú. Không chỉ là “lá phổi xanh” của đồng bằng sông Hồng, khu vực này còn là nơi gắn bó sinh kế của hàng chục nghìn người dân ven biển với các nghề truyền thống như đánh bắt hải sản, thu gom nghêu sò, làm muối hay chế biến thủy sản.
Những năm trước đây, tại các xã Giao Thiện, Giao Xuân, Giao An hay Giao Lạc, phần lớn người dân chủ yếu dựa vào cào ngao, đánh bắt tự nhiên và nuôi trồng quảng canh. Thu nhập phụ thuộc mùa vụ, bấp bênh theo thời tiết, trong khi rừng ngập mặn – nơi cư trú của hơn 200 loài chim di cư – từng suy giảm nhanh do khai thác thiếu kiểm soát. Trước nguy cơ rõ rệt ấy, huyện Giao Thủy và Ban quản lý Vườn quốc gia Xuân Thủy đã phối hợp với các tổ chức quốc tế như JICA, IUCN, Oxfam… từng bước chuyển dịch mô hình phát triển theo hướng mới: để người dân tạo thu nhập dựa trên chính tài nguyên thiên nhiên nhưng phải theo cách bền vững hơn.
Người dân ở vùng đệm được tập huấn nuôi trồng thủy sản có kiểm soát thay cho khai thác tự nhiên; được hướng dẫn quản lý bãi triều, chăm sóc và trồng phục hồi rừng ngập mặn; đồng thời được tiếp cận nguồn vốn và kiến thức ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhiều hộ chuyển sang kết hợp nuôi ngao thương phẩm với trồng thêm sú, vẹt để giữ bờ, phục hồi sinh cảnh và tạo nguồn dinh dưỡng tự nhiên cho thủy sản.
Ông Nguyễn Văn Lợi ở xã Giao Xuân chia sẻ rằng trước kia cả gia đình gần như chỉ sống bằng việc cào sò và bắt ngao, thu nhập mỗi năm chỉ vài chục triệu đồng và hoàn toàn phụ thuộc thời tiết. Từ khi chuyển sang nuôi ngao có kiểm soát kết hợp với trồng rừng ngập mặn, thu nhập ổn định hơn, bãi triều được giữ xanh và người dân có niềm tin rằng bảo vệ rừng chính là bảo vệ kế sinh nhai của mình.
Đến nay, hơn 2.000 ha rừng ngập mặn ở Xuân Thủy đã được phục hồi, trở thành “tường chắn sóng” tự nhiên bảo vệ đê biển và giảm thiểu thiệt hại do bão và nước biển dâng. Quan trọng hơn, các khu rừng này tạo ra sinh kế mới khi nhiều hộ kết hợp mô hình “rừng – ngao – cá”, giúp thu nhập tăng 1,5 đến 2 lần so với thời điểm khai thác tự nhiên. Theo Ban quản lý Vườn quốc gia, thu nhập bình quân của người dân vùng đệm đã đạt khoảng 60–70 triệu đồng mỗi năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn dưới 2%. Sự chuyển đổi lớn nhất chính là nhận thức: từ chỗ “lấy của rừng mà sống”, người dân đã chuyển sang “sống cùng rừng và gìn giữ rừng”.
Du lịch sinh thái – hướng thoát nghèo mới cho cộng đồng ven biển
Bên cạnh việc cải thiện sinh kế dựa trên bãi triều và nuôi trồng thủy sản, Xuân Thủy còn sở hữu tiềm năng lớn về du lịch sinh thái nhờ cảnh quan rừng ngập mặn độc đáo và giá trị đa dạng sinh học vượt trội. Nắm bắt cơ hội này, các mô hình du lịch cộng đồng đã ra đời tại Giao Xuân và Giao Hải, mang lại nguồn thu mới cho người dân mà vẫn đảm bảo bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Du khách đến Xuân Thủy được trải nghiệm những hoạt động gắn với đời sống người dân địa phương như tham quan rừng ngập mặn bằng thuyền, quan sát chim di cư vào mùa cao điểm, thử thu hoạch hải sản hay tự tay làm muối. Nhiều hộ đã cải tạo nhà ở thành homestay, đón khách trong nước và quốc tế. Không ít người dân trước kia chỉ đi chợ bán cá nay trở thành hướng dẫn viên, phục vụ ẩm thực hay tham gia cung cấp dịch vụ du lịch một cách bài bản.
Bà Trần Thị Lan, thành viên Tổ phụ nữ du lịch sinh thái Giao Xuân cho biết trước đây thu nhập của chị em phụ thuộc hoàn toàn vào các chuyến ra khơi hoặc bán đồ hải sản tại chợ. Nay được tham gia tập huấn đón khách, học cách bảo vệ môi trường và phát triển du lịch bền vững, mỗi năm nhóm đón hàng trăm lượt khách, thu nhập ổn định và không phải vất vả mưu sinh trên biển.
Du lịch sinh thái đã giúp đa dạng hóa nguồn sinh kế, tăng giá trị tài nguyên mà không làm tổn hại đến hệ sinh thái. Đồng thời, nó góp phần thay đổi tư duy của cộng đồng: bảo vệ thiên nhiên không còn là trách nhiệm riêng của cơ quan quản lý, mà là điều kiện để phát triển lâu dài cho chính cuộc sống của người dân.
Mặc dù đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, vùng đệm Xuân Thủy vẫn phải đối mặt với không ít thách thức. Biến đổi khí hậu khiến xâm nhập mặn ngày càng tăng và thời tiết cực đoan xảy ra nhiều hơn. Áp lực từ nuôi trồng thủy sản công nghiệp, rác thải từ các con sông đổ ra biển và sự gia tăng nhu cầu phát triển kinh tế cũng có thể tạo sức ép mới lên môi trường. Nếu không được quản lý tốt, thành quả về bảo tồn và giảm nghèo có thể bị đe dọa.
Để duy trì con đường phát triển bền vững, chính quyền địa phương các xã vùng ven Vườn quốc gia và Ban quản lý Vườn quốc gia đang xây dựng đề án phát triển vùng đệm giai đoạn 2025–2030, chú trọng mở rộng du lịch sinh thái cộng đồng, tiếp tục trồng và phục hồi rừng ngập mặn, hỗ trợ tín dụng xanh cho hộ sản xuất thân thiện môi trường, đồng thời tăng cường giáo dục môi trường cho học sinh và thanh niên.
Với cách tiếp cận kiên trì, đồng bộ và đặt con người vào trung tâm, vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Thủy đang trở thành minh chứng rõ ràng rằng giảm nghèo không nhất thiết phải đánh đổi bằng tài nguyên thiên nhiên. Khi cộng đồng được trao quyền, được tham gia quản lý và hưởng lợi từ tài nguyên, phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu, mà là con đường hiện thực hóa một tương lai xanh và thịnh vượng hơn cho vùng ven biển Ninh Bình.