Theo đó, với chương trình cử nhân, chuẩn đầu vào yêu cầu khối lượng về Toán và Khoa học tự nhiên (Vật lý, Hóa học) đạt điểm trung bình từ 8 trở lên. Quy định này được các nhà soạn thảo xác định cần thiết để việc đào tạo nhân lực bảo đảm chất lượng cao và tư duy chiều sâu lâu dài, tránh bài toán đào tạo ngắn hạn, “ăn xổi”.
Tuy vậy, liên quan đến tiêu chí này, đại diện nhiều trường đại học bày tỏ lo ngại có thể gây khó khăn trong tuyển sinh, bởi học sinh phổ thông hiện chưa mặn mà với các môn: Khoa học tự nhiên. Số liệu thống kê, năm 2017, lần đầu tiên thí sinh được lựa chọn bài thi tổ hợp Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội trong Kỳ thi THPT quốc gia, số thí sinh chọn bài thi Khoa học xã hội nhiều hơn số thí sinh chọn bài thi Khoa học tự nhiên khoảng 90.000 em. Đến năm 2023, tại Kỳ thi tốt nghiệp THPT, con số chênh lệch lên tới gần 250.000 thí sinh.
Năm 2024, trong số trên 1 triệu học sinh đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT, chỉ có 37% thí sinh dự thi chọn bài thi Khoa học tự nhiên. Tại Tọa đàm “Nhìn lại 5 năm thực hiện Chương trình GDPT 2018”, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam cho biết, nhiều tỉnh, thành có số học sinh chọn nhóm các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học chỉ đạt 11 - 15% khi vào lớp 10.
Có nhiều nguyên nhân khiến học sinh phổ thông né nhóm môn Khoa học tự nhiên. Thực tế, việc lấy điểm các môn thi nhóm này không dễ thở như các môn Khoa học xã hội nên học sinh thường chọn giải pháp an toàn để tránh bị điểm liệt trong thi cử. Đáng chú ý là điều kiện dạy học các môn Khoa học tự nhiên dù được đầu tư nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Để có sinh viên theo ngành Vi mạch bán dẫn phải có lộ trình để học sinh quan tâm đến các môn Khoa học tự nhiên từ sớm.
Thực hiện Chương trình GDPT 2018, các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học được tích hợp thành môn Khoa học tự nhiên từ cấp THCS, song đội ngũ giáo viên dạy học tích hợp chưa được đào tạo bài bản, đồng bộ. Hiện, các địa phương còn tồn tại 3 giáo viên cùng dạy môn tích hợp.
Điều kiện trang thiết bị, phòng thí nghiệm thực hành cho nhóm môn này còn nhiều thiếu thốn. Thực tế này ảnh hưởng không nhỏ đến việc đảm bảo kiến thức môn học, đặc biệt là định hướng cho học sinh có sự yêu thích, đam mê khoa học tự nhiên để sớm hình thành định hướng nghề nghiệp.
Nhân lực STEM nói chung, ngành Vi mạch bán dẫn nói riêng đóng vai trò quan trọng, tác động lớn đến sự phát triển bền vững của quốc gia. Việt Nam đã đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ có 1 triệu sinh viên theo học các ngành thuộc khối STEM, trong đó riêng lĩnh vực vi mạch bán dẫn cần đến 50.000.
Muốn đạt mục tiêu cần cân bằng được số lượng học sinh lựa chọn môn Khoa học tự nhiên so với Khoa học xã hội. Sự cân bằng này không chỉ tạo nên nguồn tuyển phong phú, chất lượng cho các trường đại học khi tuyển sinh, mà còn góp phần quan trọng đảm bảo số lượng và chất lượng nguồn nhân lực vi mạch bán dẫn trong tương lai.
Để học sinh yêu thích, có định hướng, tập trung học và lựa chọn thi các môn Khoa học tự nhiên để xét tuyển đại học, việc quan trọng nhất các em phải được học, trang bị tốt kiến thức STEM ở bậc phổ thông. Muốn vậy, những điều kiện cơ bản nhất trong dạy học nhóm môn này phải được đầu tư và đảm bảo chất lượng, trong đó quan trọng nhất là đội ngũ giáo viên.
Cùng với đẩy mạnh truyền thông, quan tâm xây dựng các tổ hợp môn tuyển sinh đại học có kiến thức tích hợp về khoa học tự nhiên, cần tăng cường tập huấn, bồi dưỡng, chuyển đổi giáo viên cũ, tăng tốc đào tạo giáo viên dạy học tích hợp ở cấp THCS. Đây là giải pháp gốc rễ, góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng cho ngành Vi mạch bán dẫn nói riêng, các ngành STEM nói chung.