Nhân kỷ niệm 85 năm ngày sinh (28/8/1935 – 28/8/2020) và 10 năm ngày mất (30/12/2010 – 30/12/2020) của GS.TS Bùi Danh Lưu; theo sự khởi xướng và đề xuất của CLB “Trái tim Người lính”, Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu, Bảo tồn và Phát huy Văn hoá dân tộc cùng gia đình tổ chức Toạ đàm “GS.TS Bùi Danh Lưu – Một trí thức tài năng, nhà lãnh đạo và quản lý tâm huyết của Ngành Giao thông vận tải Việt Nam”.
GS.TS Bùi Danh Lưu (còn có tên là Quốc Linh) sinh ngày 28/8/1935 tại xã Đào Xá (huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ), xuất thân trong một gia đình nho học.
Năm 1953, khi đang là học sinh cấp III (PTTH), ông tham gia Ban vận tải tiền phương phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiến dịch kết thúc, ông về trường học tiếp rồi được điều về Tổng cục Đường sắt làm liên lạc viên, đảm bảo giao thông trong kháng chiến chống Mỹ ở khu IV.
Năm 1970, ông được cử sang Tiệp Khắc du học và về nước năm 1976 với tấm bằng Phó Tiến sĩ. Biết tin này, nhiều đơn vị thuộc Bộ Giao thông Vận tải muốn mời ông về làm việc.
Thế nhưng GS.TS Bùi Danh Lưu đã quyết định nhận đảm nhiệm chức vụ Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật giao thông vận tải. Suốt bốn năm ở đây, dù gặp nhiều khó khăn nhưng ông Bùi Danh Lưu vẫn hoàn thành xuất sắc nhiều công trình khoa học, nhiều đề tài nghiên cứu của ông đã được ứng dụng vào thực tiễn.
Đặc biệt, giai đoạn ông được bổ nhiệm Thứ trưởng, rồi Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện (GTVTBĐ)… có rất nhiều điều độc đáo, đáng để hậu thế suy ngẫm!
Con đường quan lộ thần tốc
Một buổi chiều cuối tháng 9/1982, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải (khi ấy là Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên) đột xuất đến thăm Viện Kỹ thuật Giao thông vận tải nơi GS.TS Bùi Danh Lưu đang làm Phó Viện trưởng.
Kết thúc buổi làm việc, tướng Đồng Sỹ Nguyên đột nhiên gọi GS.TS Bùi Danh Lưu và vị Viện trưởng vào phòng và nói:
- Sắp tới, Bộ cần có thêm một Thứ trưởng đặc trách về khoa học kỹ thuật. Một trong hai anh sẽ được chọn. Các anh có ý kiến gì không?
Cả hai người đều im lặng. Bộ trưởng Đồng Sỹ Nguyên nói tiếp:
- Thôi được rồi, Bộ sẽ cân nhắc. Các anh có ý kiến gì thì gửi thư cho tôi.
Sau đấy, GS.TS Bùi Danh Lưu bận công việc cũng không để tâm đến chuyện này. Vậy mà chừng nửa tháng sau, ông bất ngờ được thăng lên làm Vụ trưởng Vụ Khoa học Kỹ thuật Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện.
17 ngày sau khi lên chức Vụ trưởng, Bùi Danh Lưu lại được lệnh lên gặp Bộ trưởng Đồng Sỹ Nguyên. Bộ trưởng thông báo với ông rằng: Trung ương đã quyết định bổ nhiệm GS.TS Bùi Danh Lưu làm Thứ trưởng và quyết định đã có từ lâu.
Vậy là GS.TS Bùi Danh Lưu từ Viện phó Viện Kỹ thuật giao thông vận tải lên Vụ trưởng rồi Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện trong thời gian chỉ đúng 17 ngày.
“Cha đẻ” cầu Chương Dương
GS.TS Bùi Danh Lưu được coi là “cha đẻ” cầu Chương Dương khi có công đầu xây nên cây cầu này.
Những năm 80 của thế kỷ 20, cả Hà Nội chỉ có cầu Long Biên bắc qua sông Hồng. Do làn đường ôtô quá nhỏ, phương tiện lưu thông đông nên cảnh ách tắc luôn xảy ra.
Vì vậy, việc dựng ngay một cây cầu để vào trung tâm Hà Nội là ưu tiên số một. Lúc đó tướng Đồng Sĩ Nguyên muốn nhờ Nhật Bản xây dựng một cầu treo nhưng GS.TS Bùi Danh Lưu lại đề xuất làm một cây cầu sắt vĩnh cửu với tốc độ làm cầu treo, tận dụng khối lượng sắt thép, vật tư làm cầu Thăng Long còn thừa.
Ông tự thiết kế cây cầu và chịu trách nhiệm về tính khả thi của dự án. Cuối cùng ông đã thuyết phục được Bộ trưởng và Chính phủ phê duyệt dự án và đích thân ông chỉ huy công trình.
Ông đã trực tiếp chỉ huy thi công cầu Chương Dương và chỉ sau thời gian ngắn kỷ lục 1 năm 9 tháng, cầu Chương Dương được khánh thành, vượt tiến độ 12 tháng, chấm dứt hoàn toàn cảnh tắc nghẽn trên cầu Long Biên. Đây được chiến công hy hữu trong lịch sử.
Cầu Chương Dương đã đi vào lịch sử với tên tuổi GS.TS Bùi Danh Lưu. Đây là cây cầu lớn lần đầu tiên được thiết kế và thi công tại Việt Nam không cần có sự trợ giúp kỹ thuật của các kỹ sư nước ngoài.
Cầu Chương Dương đến bây giờ vẫn được coi là biểu tượng của tinh thần tự lực, tự cường Việt Nam. Theo mục tiêu ban đầu, cầu Chương Dương chỉ cần được sử dụng trong 10 năm nhưng đến nay sau hơn 30 năm sử dụng, cây cầu này vẫn đang vận hành tốt.
Bất ngờ khi lên chức Bộ trưởng
Tháng 6/1986, GS.TS Bùi Danh Lưu bất ngờ được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện. Khi đó, ông đang cùng đoàn cán bộ đi khảo sát thực tế vùng Tây Bắc, nên không hề hay biết việc mình được lên chức Bộ trưởng.
Đến Lai Châu, đêm ngủ ở nhà khách của tỉnh, GS.TS Bùi Danh Lưu cùng anh em trong đoàn công tác nghe có người nói Bộ Giao thông vừa có Bộ trưởng mới. Người đưa tin lại nói Bộ trưởng là một ông họ Bùi gì đó, nhưng vì sóng radio chập chờn nên không nghe rõ.
Ông Đặng Hạ, cố vấn của Bộ trưởng Đồng Sỹ Nguyên tin là ông Bùi Do, một cán bộ cao cấp thân cận của tướng Đồng Sỹ Nguyên hồi đó đã được bổ nhiệm. Chính GS.TS Bùi Danh Lưu cũng nghĩ vậy.Mấy anh em chỉ ngồi bàn tán một lúc rồi lại ai về phòng nấy ngủ để lấy sức vượt đèo khảo sát.
Sáng hôm sau, khi xe vừa chuẩn bị chuyển bánh thì một đoàn khách khá đông gồm đủ mặt cán bộ lãnh đạo tỉnh kéo đến. Ông Bí thư tỉnh uỷ ôm bó hoa rất đẹp đến tặng và nói: “Xin chúc mừng tân Bộ trưởng Giao thông Vận tải Bùi Danh Lưu”. Nghe tin này, tất cả mọi người trong đoàn đều bất ngờ nhưng GS.TS Bùi Danh Lưu là người bất ngờ nhất.
Về sau, khi kể lại câu chuyện này, chính bản thân GS.TS Bùi Danh Lưu vẫn cười. Ông bảo: "Không thú vị sao được?! Hôm rời Hà Nội, tôi còn là Thứ trưởng; chỉ mấy ngày sau, từ Tây Bắc trở về, tôi đã là Bộ trưởng".
Từ đó, ông liên tục được tín nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ GTVTBĐ. Thời gian ông giữ chức lên đến 10 năm từ 1986 đến 1996.
Tháng 12 năm 1986 trong Đại hội Đảng lần thứ VI, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và tái đắc cử liên tiếp trong ba khóa VI, VII, VIII.
Đặc biệt là khoá VIII, ông không thuộc diện nhân sự Trung ương giới thiệu tái cử, nhưng cơ sở vẫn giới thiệu để bầu và ông vẫn trúng phiếu cao. Trong cuộc bầu cử ngày 19 tháng 4 năm 1987, ông trúng cử đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Tháng 12/1987, tại Đại hội thành lập Hội Khoa học kỹ thuật cầu đường Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ông được bầu làm Chủ tịch hội và giữ chức vụ này đến khi qua đời (2010).
Ngoài ra, ông được bổ nhiệm làm Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tạo điều kiện cho sự phát triển của Ngành GTVTBĐ
GS.TS Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đã dành cả cuộc đời cống hiến cho ngành GTVTBĐ. Ông cũng là người góp công xây dựng nên nhiều công trình giao thông được sử dụng đến tận ngày nay.
Trong những năm làm Thứ trưởng, GS.TS Bùi Danh Lưu là trợ thủ đắc lực của Bộ trưởng Đồng Sĩ Nguyên trong nhiều chủ trương và công việc cụ thể thúc đẩy ngành giao thông phát triển.
GS.TS Bùi Danh Lưu lên nhậm chức Bộ trưởng vào năm 1986. Đó là thời kỳ đất nước lầm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Ngành GTVTBĐ cũng không nằm ngoài bối cảnh chung của dân tộc khi đó, là một bức tranh cực kỳ bi đát.
Trước tình thế đó, để cứu lấy ngành GTVTBĐ GS.TS Bùi Danh Lưu đã có những quyết sách sáng suốt đạt thành quả toàn diện trên mọi lĩnh vực.
Với tầm nhìn chiến lược, Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đưa ra Chương trình 11 điểm phát triển ngành giao thông vận tải.
Trước hết đó là hành động “tự phẫu thuật chính mình” thay đổi lớn về ngành GTVTBĐ: Chấm dứt mô hình đơn vị hỗn hợp, tách công tác quản lý khỏi sản xuất kinh doanh khi cho lập các Cục chuyên ngành - hoàn toàn làm công tác quản lý nhà nước và các Tổng công ty kinh doanh vận tải chịu trách nhiệm kinh doanh và nộp tiền cho ngân sách.
Quyết sách này tác động mạnh trong toàn ngành. Sau khi tách ra, người và nghề duy tu được trả lại đúng tên, nhiều hoạt động được chấn chỉnh hoặc khôi phục trở lại.
Bộ trưởng Bùi Danh Lưu cũng trực tiếp phát động Chương trình phát triển giao thông nông thôn theo phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trên phạm vi cả nước. Sau 10 năm ông giữ vai trò Bộ trưởng, đã có thêm gần 1.000 xã được xóa khỏi danh sách chưa có đường ô tô tới trung tâm.
Chính sách táo bạo thứ hai đó là xã hội hoá kinh doanh vận tải, huy động xe tư nhân tham gia vận tải. Chỉ trong một thời gian ngắn, cung cầu từ hụt hẫng nghiêm trọng trở lại cân bằng mà nhân tố quyết định là do các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, chủ yếu là tư nhân đầu tư phương tiện mới chiếm tỉ trọng lên đến 70 đến 80% tham gia kinh doanh vận tải.
Một quyết sách khác của Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đó là chủ trương “lấy đường nuôi đường, lấy công trình nuôi công trình” (thu phí giao thông) để tạo vốn xây dựng và duy tu hạ tầng cơ sở giao thông.
Những phương sách này đã tạo tiền đề cho việc triển khai hàng loạt dự án BOT và PPP sau này. Đến nay chúng ta đã rất quen thuộc với việc thu phí giao thông hay cách thức xây dựng – khai thác – chuyển giao (BOT) nhưng vào thời điểm GS.TS Bùi Danh Lưu làm Bộ trưởng điều đó còn rất xa lạ. Những phương sách mới này lúc đó bị phản đối kịch liệt bởi thói quen bao cấp kéo dài.
Chương trình 11 điểm của Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đã chứng tỏ tầm nhìn chiến lược và tính dự báo cho sự phát triển sôi động giao thông vận tải trong kinh tế thị trường đầu thế kỷ 21.
Với vốn tri thức được đào tạo bài bản, tầm nhìn hơn người, với bản lĩnh và tâm huyết dành cho ngành GTVTBĐ, GS.TS, Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đã “vực” ngành giao thông qua khỏi khủng hoảng những năm thập niên 70 - 80 của thế kỷ 20 và bắt đầu có những bước phát triển khởi đầu cho sự bùng phát mạnh mẽ trong thế kỷ sau.
Ông vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương Lao động hạng Nhất, hàng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Một đàn ông mẫu mực của gia đình
Là người có học hàm học vị cao, một chính khách lẫy lừng nhưng khi trở về nhà, Bùi Danh Lưu lại là người chồng người cha bình dị và chăm lo vợ con hết mực.
GS.TS Bùi Danh Lưu xây dựng gia đình với bà Trần Thị Quế từ năm 1956 và có với nhau 3 người con. Hơn 50 năm sống bên nhau, dù bận trăm công nghìn việc nhưng ông luôn dành cho người vợ của mình tình yêu thương và sự quan tâm sâu sắc. Để đến bây giờ khi ông đã đi xa nhiều năm, trong tâm trí bà vẫn toàn là những dấu ấn đầy thương mến.
Điều hạnh phúc của gia đình cố GS.TS Bùi Danh Lưu là con cháu ông đều trưởng thành. Đặc biệt là thế hệ các cháu, đã nối tiếp truyền thống hiếu học của người ông, đều học rất giỏi, trở thành những nhà nghiên cứu khoa học trẻ, là niềm tự hào của quê hương đất nước.