Chỉ số chất lượng đào tạo nghề của Việt Nam trong ASEAN: Thấy gì khi ở tốp cuối?

GD&TĐ - Chuyên gia nhận định, thị trường lao động Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số hạn chế về cung – cầu lao động, công nghệ thông tin, năng lực cán bộ...

Cần nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp. Ảnh minh họa
Cần nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp. Ảnh minh họa

Thiếu kỹ năng mềm

Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung cho biết, sau hơn 35 năm đổi mới, thị trường lao động Việt Nam đã có những bước tiến dài trên con đường phát triển. Đó là, hệ thống pháp luật được hoàn thiện tương đối đồng bộ và toàn diện. Nguồn cung lao động cho thị trường lao động không ngừng gia tăng về số lượng và cải thiện về chất lượng. Cầu lao động tăng về số lượng và cải thiện về chất lượng theo hướng hiện đại và bền vững.

Mặc dù như vậy, theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, thị trường lao động Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Cụ thể là trên bình diện cả nước, cung lao động còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập.

Về cầu lao động của nền kinh tế cũng chưa đủ “hiện đại”, chưa có đủ việc làm bền vững để đáp ứng nhu cầu việc làm phù hợp với nguyện vọng của người lao động. Trình độ và kỹ năng của lực lượng lao động mặc dù được cải thiện song vẫn còn thấp so với yêu cầu của thị trường lao động và so với các nước trên thế giới. Đây tiếp tục là điểm nghẽn cho phát triển việc làm chất lượng và năng suất.

Trong so sánh quốc tế, xếp hạng trụ cột kỹ năng và chỉ số chất lượng đào tạo nghề nghiệp của Việt Nam thuộc nhóm cuối của ASEAN. Nhìn chung, trình độ tay nghề, kỹ năng của lực lượng lao động Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt thiếu kỹ năng mềm.

Việt Nam hiện thiếu đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, chuyên gia và quản lý doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế động lực, trọng điểm. Đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ còn thiếu và yếu.

Những hạn chế này đã cản trở sự đóng góp của nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đặc biệt, trình độ lao động thấp thì sẽ rất khó dịch chuyển sang các ngành nghề, công đoạn có giá trị gia tăng cao để tăng năng suất lao động và bắt kịp với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Bộ trưởng Đào Ngọc Dung đánh giá, nhìn tổng thể, ở thời điểm hiện tại thị trường lao động Việt Nam vẫn là một thị trường dư thừa lao động, có trình độ, kỹ năng thấp và có sự phát triển không đồng đều. Chúng ta thấy đã và đang tồn tại tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ giữa các vùng miền, khu vực, ngành nghề kinh tế. Cơ chế kết nối cung - cầu và tự cân bằng của thị trường còn yếu, mà lý do chính là hệ thống thông tin trên thị trường lao động chưa được phát triển đầy đủ.

Phương thức quản trị thị trường lao động còn nhiều yếu kém, rời rạc, thiếu tính kết nối. Năng lực cán bộ là khâu yếu nhất của quản trị thị trường lao động, thiếu các chuyên gia và đội ngũ cán bộ có đủ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm để dự báo, phân tích xu thế và đề xuất giải pháp quản lý thị trường lao động có hiệu quả…

Phát triển thị trường lao động hướng đến việc làm bền vững

TS Bùi Sỹ Lợi - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội cho rằng, thị trường lao động Việt Nam cho đến nay còn một số hạn chế. Điều này thể hiện trên 4 vấn đề chính.

Thứ nhất là thị trường lao động phát triển nhưng chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế và giải quyết việc làm một cách bền vững.

Thứ hai là thị trường lao động có sự phân mảng giữa các vùng, khu vực mà tác động của dịch Covid-19 là biểu hiện lớn nhất cho thấy sự mất cân đối cung cầu lao động một cách cục bộ.

Thứ ba là quan hệ cung cầu lao động trên thị trường chưa phù hợp cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Do không quan tâm đến cơ cấu nên có thể đào tạo nhưng lại không sử dụng được vì không đào tạo theo nhu cầu của thị trường.

Thứ tư là vấn đề yếu nhất của Việt Nam hiện nay đó chính là công nghệ thông tin. Chính sách bàn đến hỗ trợ người bị ảnh hưởng do dịch Covid-19 nhưng không chủ động được để cung ứng gói an sinh xã hội đến người dân. Điều này rất đáng suy nghĩ khi thực hiện chính sách về lao động.

Ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng, nên xác định rõ quan điểm, định hướng và thống nhất một số nhận định, phát triển thị trường lao động theo các tiêu chí: “Linh hoạt - Hiện đại - Bền vững - Hội nhập - Hiệu quả”.

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định chủ trương phát triển thị trường lao động hướng đến việc làm bền vững. Theo đó, mục tiêu phát triển thị trường lao động chính là việc làm bền vững thể hiện qua 6 yếu tố. Đó là cơ hội người lao động có việc làm; điều kiện làm việc; năng suất lao động; bình đẳng; an toàn tại nơi làm việc; thu nhập thoả đáng và bảo đảm BHXH, BHYT.

Để thị trường lao động đạt được 5 yếu tố “Linh hoạt - Hiện đại - Bền vững - Hội nhập - Hiệu quả”, ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng cần vận hành hiệu quả với thị trường vốn, đất đai, hàng hoá, dịch vụ, thông tin, giảm thiểu các rào cản với người lao động. Quan trọng nhất là thu hẹp được việc làm của khu vực phi chính thức. Điều này không có nghĩa là chuyển ồ ạt lao động của thị trường phi chính thức sang chính thức mà chuyển dần từng bước và có điều kiện.

Để phát triển và ổn định thị trường lao động trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung đã nêu ra các giải pháp như tăng cường công tác thông tin truyền thông. Đồng thời, rà soát, đánh giá nhu cầu nhân lực theo từng ngành, lĩnh vực, từng vùng đặc biệt là đánh giá nhu cầu nhân lực của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó, rà soát, đánh giá, sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dụ nghề nghiệp…

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ