Cảm thụ văn học: Rưng rưng tình quê trong 'Giàn bầu trước ngõ'

GD&TĐ - “Giàn bầu trước ngõ” có cốt truyện đơn giản và mang tính tự thuật.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Truyện nương theo một chi tiết đầy sức ám gợi xuất hiện ngay từ đầu, đấy là hình ảnh giàn bầu của nội. Thân thương, ấm áp đến lạ, giàn bầu đơn sơ là chất keo gắn kết hương vị tình thân giữa những thành viên trong gia đình, là sợi dây nối về khoảng cách thế hệ dưới một căn nhà. Giàn bầu thấm đẫm hương vị quê của tình đất, tình người.

Vẻ đẹp bình dị của đất và người quê

Thiên truyện mở đầu bằng thái độ không mấy thiện cảm của mọi người trong nhà với giàn bầu trước ngõ. Dần dần những mẩu chuyện của nội cứ men theo nội dung câu chuyện giàn bầu: Bát canh bầu ngon mát lịm, vỏ bầu khô làm vòng hạt cườm, giàn bầu run rẩy trong gió…

Rồi lúc nội cười, ánh mắt đục thoáng buồn, rồi nội vui, nội nhớ nhớ quên quên… lúc tuổi mãn chiều xế bóng. Các tình tiết sự việc với lối dẫn dắt tự nhiên chân thành, với giọng kể dung dị, thân thương, Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến cho trang viết vẻ đẹp bình dị của đất quê, người quê. Nơi đó còn sót lại những người cũ càng như nội tôi.

Rất nhiều lần giàn bầu gây khó chịu cho mọi người trong nhà, ai cũng thấy chán. Tôi không thích khi cưỡi xe vào tận thềm nhà lại phải rạp mình dưới giàn bầu ấy. Chị và mẹ tôi lại ngại tóc rối. Cha tôi khó chịu khi phải dắt quan khách len lỏi bên mấy trái bầu để vào căn nhà sang trọng. Nhưng không ai dám chặt phá giàn bầu bởi nó của bà nội tôi.

Xa quê hương với nội, giàn bầu xanh mướt mát là hiện thân của quê hương, một phần máu thịt bình dị đơn sơ. Lí do khiến ngoại mải mê trồng giàn bầu mặc cho sự căn ngăn, tò mò của con cháu. thật giản dị “trồng trọt để đỡ nhớ quê”.

Gợi thức những giá trị văn hóa

Bằng tâm thế tìm về, trân trọng những giá trị văn hóa quen thuộc có thể bị mai một lãng quên bởi cuộc sống phố thị ồn ào, thiên truyện của Nguyễn Ngọc Tư đã gom nhặt níu giữ những giá trị đơn sơ thuộc về quá khứ.

Đó là bát canh bầu buổi trưa hè trong veo ngọt lịm. Bữa canh đầu tiên cả nhà háo hức, nuốt tuồn tuột từng miếng bầu. Ba gật gật khen ngon, day sang trách mẹ “sao trước giờ không mua bầu mà nấu ăn bà ta?”.

Đó là vị quê chen lấn trong gian bếp mà mỗi người nhà quê đều không thể quên “mùi nước canh xông vào mũi thơm lừng. Ông chủ tịch day qua bà nội khoe “lâu quá không ăn canh bầu rồi, má!”.

Nội cười: “Má nhớ bay thích nhất là ăn bầu nấu tép bạc”. Hôm ấy cả nhà tôi ăn lại bát canh ngày xưa, nghe ngọt lìm lịm lưỡi”. Không ở đâu như trên những trang viết Nguyễn Ngọc Tư ẩm thực vùng sông nước miệt vườn hiện lên sinh động ấm áp đến thế. Bát canh bầu nấu tép bạc những buổi trưa hè có thể đánh bay mọi cao lương mĩ vị khiến bao người quê thổn thức nhung nhớ khôn nguôi.

Truyện còn gợi nhắc đến những thức quà quê được gợi ra qua thứ bánh quê mà nghe qua cái tên thật lạ lẫm với những đứa trẻ lớn lên từ thành phố. Thứ bánh mà ăn vào “nó ngòn ngọt dai dai. Thứ bánh nhà quê này xem ra có khác với sandwich, chocolate…”. Bánh khọt, bánh ú. Thứ bánh mà dường như chỉ có nhân vật tôi trong vai người kể chuyện ăn còn ba mẹ đến chị Lan đều tránh xa xa.

Câu văn đọc lên tỉnh táo, lạnh băng nhưng thấm đẫm sau từng câu là một nỗi buồn kín đáo len lỏi về sự khác biệt sâu sắc đến từ phố thị và nhà quê. Mọi thứ đến từ quê, từ nhọc nhằn lam lũ có thể chấp nhận cái nhìn dửng dưng thậm chí chê bai dè bỉu đến từ con người phố.

Nguyễn Ngọc Tư nói cho ta về những giá trị quê bình dị như cách làm “bánh khọt thì phải đốt bằng lò đất, nó mới ngon”. Bà đốt lửa, mắt già tèm nhem nước mắt mùi khói thơm thơm, cay nồng. Hương vị quê bình dị qua làn khói đặc trưng. Có một miền quê để thương để nhớ nồng hậu trầm ấm đến thiết tha được gợi thức qua những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư.

rung-rung-tinh-que-trong-gian-bau-truoc-ngo-2-617.jpg
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.

Những vỉa tầng triết lý sâu sắc

“Giàn bầu trước ngõ” là câu chuyện cảm động về nội, về giàn bầu và chứa đựng những triết lý sâu sắc. Quê hương, nguồn cội trở thành một phần trong tâm thức huyết quản của nội không thể tách rời. “Ôi cái quê của nội. Cái quê heo hút muốn về phải đi mấy chặng xe, tàu.

Cái quê mà mỗi lần về, vào cuối mùa mưa, đất bùn quến vào móng chân tôi, ém chặt thối đen. Cái quê đèn cầy, đèn cóc, đêm nhóc nhen kêu buồn nẫu ruột, mùa lũ, lơ phơ chỉ thấy mấy nóc nhà”. Cái quê nghèo mà đến những tháng ngày cuối đời bạo bệnh nội vẫn chỉ nhớ siết về nó. Khi trời đổ mưa, sấm giật ầm ầm, nội thều thào nhắc:

- Sắp nhỏ đừng hứng nước mưa đầu mùa, hỏng tốt. Chà, mưa vầy ngập đồng rồi, ngâm giống gieo mạ đi thôi.

Có lẽ thành công lớn nhất trong truyện ngắn này của Nguyễn Ngọc Tư là đã đánh thức được nỗi nhớ quê bên trong mỗi chúng ta. Nỗi nhớ quê lại càng day dứt khắc khoải thường trực hơn với những ai xa xứ, xa quê. Mấy anh chị sinh viên đạp xe ngang dừng lại nhìn đau dấu qua rào rồi kháo nhau “Nhớ nhà quá, tụi mày ơi”.

Chiều chiều, tôi ra giàn bầu xanh rượi, mơ màng nghe con ong vò vẽ trên từng phiến lá, chớp mắt nhìn chim sâu lích rích chuyển cành, chuồn chuồn rồi bướm rồi hoa thi nhau nở chấp chới… Quê hương bình dị, giàu chất thơ hiện lên trên những trang viết Nguyễn Ngọc Tư. Ai cũng có một bản quán, chốn dung thân thuộc về nơi họ chôn nhau cắt rốn: “Ai cũng có một quê/ Ngày dại thơ để ở/ Khi khôn lớn để yêu/ Và đi xa để nhớ”.

Cuộc sống phố thị bận rộn đến nỗi người ta bận tối tăm mặt mũi, không còn mấy dành thời gian cho nhau, thậm chí là cùng nhau ngồi xuống quây quần bên mâm cơm gia đình. Nội từ quê chuyển lên thành phố sống với con. Bên cạnh nỗi nhớ quê đến quay quắt là sự cô đơn khi không lấy ai tâm tình, bầu bạn. Đọc truyện ngắn ta thấy bóng dáng một người quê cô đơn, thấy khoảng cách chênh vênh giữa hai thế hệ. Ở thành phố nhàn đến nỗi nội không có việc gì để làm.

Nguyễn Ngọc Tư đã nêu bật lên cho độc giả một thực tế không khó tìm ở cuộc sống quanh ta: Ở nhà tôi, công việc nhàn đến mức bà thơ thẩn vào rồi lại thơ thẩn ra. Nhà cao cửa rộng, khéo đi, cả ngày chẳng ai gặp mặt ai. Chị tôi đi học cả ngày, mẹ tôi đến sở. Bà ra cửa trước, tôi vào cửa sau, bà lên lầu, cha đi xuống, gặp nhau ở lối ngõ cầu thang, nội ngó cha, nhắc “Lúc này bay bận rộn, đến không không ăn cơm ở nhà, khéo ngã bệnh nghen con”.

Truyện kết thúc bằng hình ảnh giàn bầu đang run rẩy trong gió, bằng bóng dáng nội ngồi đấy lặng lẽ, thẫn thờ, như chờ một tiếng vạc sành, một tiếng ếch kêu. Tay bà lạnh ngắt, tôi chạy vào phòng lấy lọ dầu thoa, vẫn thấy mảnh bầu trái tim màu vàng trong ngăn kéo, cái màu vàng như của rạ, của lúa, như của mái nhà lá nhỏ lơ phơ dưới nắng chiều.

Nếu xem “Chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm” (Pautopxki) thì chi tiết “mảnh bầu trái tim màu vàng trong ngăn kéo, cái màu vàng như của rạ, của lúa, như của mái nhà lá nhỏ lơ phơ dưới nắng chiều” có ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc.

Giàn bầu là hiện thân của quê hương, quê hương trở thành một phần máu thịt trong cuộc đời bà. Cái mảnh bầu trái tim màu vàng đó ám ảnh nhân vật tôi. Trước đây ba tôi nói “làm người đừng suy nghĩ hẹp hòi, đừng tưởng nơi mình sinh ra, nơi có mồ mả ông cha là quê hương, khắp đất nước này chỗ nào cũng là quê cả”.

Cha tôi nói đúng và ông rước bà nội lên thành phố. Nhưng kết thúc thiên truyện cha tôi bảo: “Có thể bứt người ta ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi trái tim con người”. Truyện kết thúc bằng những suy tư sâu sắc.

Nét độc đáo trong cách kể chuyện

“Giàn bầu trước ngõ” hấp dẫn người đọc bởi cách kể chuyện độc đáo. Truyện kể theo ngôi thứ nhất, người kể xưng tôi tham gia vào nội dung câu chuyện. Đặt điểm nhìn là người trong cuộc, nhân vật tôi là người tham gia chứng kiến câu chuyện kể lể sự tình. Từ những quan sát đến chiêm nghiệm, nhân vật tôi vừa ngơ ngác vừa có những đúc kết suy tư đầy triết luận.

Ngôn ngữ văn xuôi giàu hình ảnh với rất nhiều hình ảnh so sánh có sức ám gợi, lay động người đọc bởi sức liên tưởng sâu xa. Âm điệu tiết tấu câu văn nhẹ nhàng giàu chất thơ vừa gợi tả vẻ đẹp giàn bầu vừa khơi gợi lên được nỗi nhớ quê hương chất chứa, da diết của người bà. Ngôn ngữ vừa mộc mạc bình dị vừa đậm chất vùng miền “tụi bay tưới nước như thằn lằn đái”, “sắp nhỏ đừng hứng nước mưa đầu mùa, hỏng tốt”, ngôn ngữ văn xuôi đậm tính triết luận gợi được sự gắn kết không thể tách rời giữa con người và quê hương.

Nguyễn Ngọc Tư thường nghe thấy rất nhiều những câu chuyện khác nhau, những tiếng thì thầm thôi thúc chị kể chuyện bằng ngòi bút: “Hãy kể câu chuyện này, nó là của bạn. Một khi lời thì thầm cất tiếng, tôi không còn bối rối bởi những ồn ã chung quanh. Những hứa hẹn và dọa dẫm. Tán thưởng và ghét bỏ. Ảo tưởng và mặc cảm. Yêu thương và đố kỵ.

Chúng có thể vang động, gây choáng váng vào một vài giây phút nào đó, rồi lời thì thầm kia về lại với tôi, chỉ để nói hãy viết câu chuyện thuộc về tôi. Nó xua sợ hãi, và làm tôi quên mất những cái bóng vĩ đại trên đầu mình. Hãy kể câu chuyện này ra, bởi bạn là nhà văn, đó là việc bạn phải làm, duy nhất. Và đó là thứ duy nhất làm nên một thế đứng kiêu hãnh, cho người viết”.

Viết câu chuyện thuộc về mình, của mình Nguyễn Ngọc Tư đã chạm đến rất nhiều người cùng chung chia nỗi niềm với chị. Thế đứng kiêu hãnh cho người viết có phải vì thế mà luôn vững chãi và không bị lung lay?

Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, quê ở Cà Mau. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết như một cách giải tỏa và thể nghiệm. Nguyễn Ngọc Tư viết về những điều gần gũi giản dị nhất xung quanh cuộc sống của mình: Những gì nương náu hiện hữu quanh cuộc sống thường nhật đi vào trang viết của chị chân thật như chính hơi thở nồng nàn chất quê sông nước.

Giọng văn Nguyễn Ngọc Tư đậm chất Nam Bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi, bạc bẽo. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nơi miệt vườn Cửu Long.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ