Từ nhan đề bài thơ, hình ảnh “mưa xuân” trở thành một tín hiệu nghệ thuật xâu nối mạch ngầm mười khổ thơ toàn bài. Trên nền không gian của mưa xuân là câu chuyện tình yêu thầm kín được nhân vật trữ tình “em” kể lại với một giọng điệu nhẹ nhàng, thiết tha, sâu lắng.
1.
Mùa Xuân đi vào thơ ca từng làm nên những tiếng thơ trong trẻo, náo nức, vui say. Với Hàn Mặc Tử, “Mùa Xuân chín” hiện lên với gam màu ấm nóng, gợi khoảnh khắc rạo rực của nhân vật trữ tình:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang.
Trong bộ tứ bình cảnh sắc bốn mùa của “Việt Bắc”, nhà thơ Tố Hữu điểm một nhành xuân bằng sắc trắng tinh khôi: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”.
Mùa Xuân Tây Bắc đi vào thơ Chu Thùy Liên bằng hình ảnh căng tràn sức sống: “Cành mận bung cánh muốt”.
Hòa âm cùng dàn hợp xướng thơ xuân, nhà thơ Thanh Hải cũng góp một giai điệu thật tươi tắn, rộn ràng - một “Mùa Xuân nho nhỏ”:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Nguyễn Bính cũng từng đem đến cho thơ xuân bằng một mùa xanh:
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh.
Bắt nhịp cùng sắc màu tươi tắn, căng tràn sức sống của mùa Xuân đất trời, và tiếng xuân rộn ràng, hồ hởi của lòng người, một lần nữa, với thi phẩm “Mưa xuân”, Nguyễn Bính đã đem đến cho thơ xuân một tứ thơ đẹp, mang nét đặc trưng của mùa Xuân Đồng bằng Bắc Bộ:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Mưa xuân là dấu hiệu thời tiết của mùa Xuân. Mưa xuân thường nhẹ, bay - còn gọi là mưa bụi. Từ láy “phơi phới” trong câu thơ “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay” vừa để chỉ trạng thái “bay” của mưa vừa diễn tả nỗi mừng vui, khấp khởi của người đang ngắm mưa. Sự giao thoa giữa đất trời và lòng người làm cho cảnh vật trở nên sống động, có hồn, mang tâm trạng.
Giữa không gian mưa xuân bay, là hình ảnh bình dị, quen thuộc: “Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”. Hoa xoan màu tím, có pha chấm trắng, cánh nhỏ li ti, thường nở vào đầu tháng Ba, tức vào độ giữa mùa Xuân.
Hoa xoan lại mang vẻ đẹp đặc trưng của nông thôn Việt Nam, mang hồn xuân của vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Hoa xoan ở đây không phải được miêu tả ở dạng cảnh sắc, mà trong trạng thái “lớp lớp rụng vơi đầy”. Cái “vơi đầy” của lớp lớp những cánh xoan rụng xuống vừa gợi cảnh quen của bức tranh mùa Xuân thôn quê vừa gợi cái xao xuyến của lòng người trước cảnh xuân.
Mưa xuân ở đây còn mang theo chút se lạnh, nhất là khi về đêm:
Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay dưới mái hiên
Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh.
Mưa lúc này dường như đã nặng hạt, đã thành giọt nhỏ xuống trước mái hiên. Mưa mang theo hơi lạnh, “Em ngửa bàn tay trước mái hiên” và cảm nhận được “chấm lạnh” khi từng giọt mưa rơi xuống.
Khí tiết đặc trưng của mùa Xuân Đồng bằng Bắc Bộ từng được Nguyễn Bính nhắc đến trong bài thơ khác:
Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa
Tà tà mưa bụi rắc lưa thưa
Cây cam cây quít cành giao nối
Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.
(Mưa xuân II)
Nguyễn Bính được xem là nhà thơ của làng quê Việt Nam, với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc. Thơ ông đến với người đọc như một cô gái quê kín đáo, duyên dáng. Người đọc bắt gặp ở thơ ông những nét dung dị, đằm thắm, thiết tha, đậm hồn dân tộc, gần gũi với ca dao, dân ca.
Trở lại với bài thơ “Mưa xuân”, có thể thấy, những dòng thơ mở đầu làm hiện lên khung cảnh thôn quê quen thuộc, ở đó hồn quê thu về trong vẻ hồn nhiên, yêu đời của một cô gái tuổi đôi mươi. Nhưng đây không phải là bài thơ đặc tả cảnh xuân, cảnh quê, toàn bộ không gian mùa Xuân trong bài thơ được miêu tả trong ý đồ nghệ thuật của tác giả nhằm làm nền cho một câu chuyện tình yêu thầm kín của cô gái thôn quê. Không gian ấy vừa mang nét đẹp riêng, vừa phù hợp để diễn tả tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình. Đó là không gian biết nói, biết rung động, biết cất lời.

2.
Vào mùa Xuân ấy, trong đêm mưa xuân ấy, có một câu chuyện tình thầm kín của cô gái thôn quê được kể. Nhân vật trữ tình hiện lên qua lời bộc bạch chân thành ngay từ những câu thơ mở đầu:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.
Chỉ vài lời tự bạch, người đọc có thể hình dung được về công việc, về hoàn cảnh sống của cô gái: Làm nghề dệt vải, sống cùng mẹ già. Ngầm sau đó còn là lời nhắn gửi: “Lòng trẻ còn như cây lụa trắng/ Mẹ già chưa bán chợ làng xa”. Phép so sánh “lòng trẻ” với “cây lụa trắng” thật độc đáo.
Hình ảnh “cây lụa trắng” vừa gần gũi, thân quen vừa giàu sức gợi - gợi vẻ đẹp tinh khôi của người con gái, gợi vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, gợi sự trong trắng, thiêng liêng. Sau sự tự ý thức về giá trị, cô gái thổ lộ: “Mẹ già chưa bán chợ làng xa”. Lời tự bạch táo bạo nhưng lại được nói một cách ý nhị, kín đáo nhờ biện pháp so sánh, ẩn dụ quen thuộc trong ca dao. Thơ Nguyễn Bính mới nhưng gần gũi cũng bởi cách nói, cách so sánh như thế.
Câu chuyện tình yêu được kể tiếp khi nhắc đến sự việc:
Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay.
Hội làng là một nét văn hóa của người Việt xưa, đặc biệt là ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Người ta đến hội làng, trước là để xem hội, sau nữa là để gặp gỡ, giao duyên. Vì thế mà, ngay khi biết “thôn Đoài hát tối nay”, trong lòng cô gái đã dấy lên cảm xúc:
Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ tới anh.
Cả khổ thơ như bị “giăng tơ” bởi tâm trạng thổn thức của nhân vật trữ tình. Trong lòng “em”, cảm xúc rạo rực, đắm say đang dâng trào nhưng không biết thổ lộ ra sao, vì không biết tình cảm của “anh” thế nào. Cảm xúc đó, ban đầu còn cố giấu kín trong lòng, nhưng rồi, không thể kìm nén được, nó tràn lên câu chữ, hiển hiện ra bên ngoài: “Em ngừng thoi lại giữa tay xinh/ Hình như hai má em bừng đỏ”.
Đây có lẽ là những câu thơ thần kì, vì nó đã bắt được cái khoảnh khắc rung động tận sâu bên trong tâm hồn con người. Đằng sau cái “bừng đỏ” trên hai má em là tình yêu không thể giấu kín, là nỗi thẹn thùng, xấu hổ và cả chút e dè, ngại ngùng khó nói ra của một cô gái.
Nhưng khi tình yêu trong lòng trào dâng mãnh liệt, “em” buộc phải thú nhận: “Có lẽ là em nghĩ tới anh”. Lời thơ giăng mắc tơ lòng, nhưng cứ được bắt đầu bởi những phỏng đoán “hình như” (hai má em bừng đỏ), “có lẽ” (là em nghĩ tới anh). Điều này làm cho câu thơ trở nên nhẹ nhàng, mềm mỏng hơn, lời bộc bạch tình yêu trở nên kín đáo, tình tứ hơn.

3.
Thời gian trôi dần về đêm, khi “Bốn bên hàng xóm đã lên đèn”, cô gái đứng trước hiên nhà, cảm nhận mưa chấm lạnh xuống bàn tay và đoán định: “Thế nào anh ấy chả sang xem”. Và thế rồi, “Em xin phép mẹ vội vàng đi”.
Cái “vội vàng” này không phải chỉ là để kịp xem hội làng, vì “Thôn Đoài cách có một thôi đê”, mà có lẽ còn là cái vội vã, gấp gáp để kịp gặp anh. Khi “Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm”, thì em vẫn “mải miết tìm anh”. Em tìm anh đến quên cả lời mẹ dặn “xem về kể mẹ nghe”, tìm đến “chả thiết xem”, tìm thâu đêm. Cuộc tìm kiếm đó cũng chính là hành trình để đến với tình yêu, đến với hạnh phúc.
Chỉ tiếc rằng, cuộc hành trình ấy đã không như mong đợi. Lòng người đột nhiên chùng lại, lời thơ từ đây, trở thành lời tự thổn thức:
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.
“Giường cửi lạnh” hay lòng em lạnh lẽo, hụt hẫng, chơi vơi. “Thoi ngà nhớ tay em” hay lòng em đang dâng tràn nỗi nhớ anh. Sự lỡ làng ấy đã làm giọng thơ từ đây chuyển sang dỗi hờn, trách cứ:
Chờ mãi anh sang anh chẳng sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa Xuân cũng lỡ làng.
Tâm trạng đợi chờ của cô gái được diễn tả thật tinh tế. Điệp từ “anh” và “sang” (“Chờ mãi anh sang anh chẳng sang”) làm cho âm điệu câu thơ vừa luyến láy vừa như được kéo dài. Thành ngữ “năm tao bảy tuyết” được dùng để trách cứ về việc anh đã “hò hẹn” lại “lỡ làng”, nhưng giọng điệu dỗi hờn sao mà da diết…
Mùa Xuân lỡ làng, tuổi xuân trôi đi, tình yêu không gặp gỡ, nhưng sau câu thơ, niềm khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc của cô gái thì vẫn thổn thức, thiết tha, cháy bỏng. Tâm hồn nhân vật trữ tình hiện lên, ở một góc khác, nhưng vẫn rất chân thực, rất đẹp.
4.
Trở về từ hội làng, không gặp được anh, “mình em lầm lụi”, buồn tủi, khoảng cách không gian cũng nhuốm tâm trạng:
Mình em lầm lụi trên đường về
Có ngắn gì đâu một dải đê!
Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt
Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.
Nếu buổi đầu đến hội “Thôn Đoài cách có một thôi đê” - tức một đoạn đê ngắn, thì giờ đây, vẫn thôi đê đó nhưng đã thành “một dải đê!”. Vẫn là “mưa xuân phơi phới bay”, vẫn là “hạt mưa chấm bàn tay” nhưng đến hết hội mưa đã “nặng hạt”. Cái dài của đê, cái nặng của mưa có sự hiện hữu của tâm trạng! Câu thơ cuối khổ khép lại, nhưng nỗi buồn thương thì còn giăng mắc – “Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya”.
Thời gian chảy trôi, đầu hội “Bốn bên hàng xóm đã lên đèn” thì tan hội đã là “canh khuya”. Tâm trạng cô gái từ “giăng tơ một mối tình”, nay chỉ còn “lạnh lùng”, “thêm tủi”. Mạch của bài thơ được cấu tứ theo mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình từ đầu đến hết đêm hội, tất cả làm nên một câu chuyện tình yêu không gặp gỡ.
Sự tiếc nuối, nỗi niềm mong ngóng cứ thế hòa vào mưa xuân, gieo vào lòng người những nỗi vương vấn khôn nguôi. Thế nhưng mạch thơ đến đây vẫn chưa khép lại. Lúc này, “mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày”, “Hội chèo làng Đặng” đã “về ngang ngõ”, “mùa Xuân đã cạn ngày”, nhưng trong lòng cô gái vẫn gieo hi vọng:
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ
Để mẹ em rằng: Hát tối nay?
Kết cấu vòng tròn: Mở đầu là một thông báo “Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ/ Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay”, kết lại là một câu hỏi “Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ/ Để mẹ em rằng: Hát tối nay?”. Trong câu hỏi vẫn thắc thỏm nỗi đợi chờ. Chưa biết là “bao giờ” thì em mới gặp được anh, nhưng nỗi đợi chờ thì vẫn ở đó, đi qua mùa Xuân, qua tháng năm, bất chấp thời gian. Mùa Xuân nay dẫu đã “cạn ngày” nhưng tình xuân thì không thể phôi pha.
“Mưa xuân” là bài thơ hiện đại, tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1932 - 1945), nhưng lại mang đậm những yếu tố truyền thống. Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của cô gái khi yêu nhưng được viết theo thể thơ tứ tuyệt trường thiên, giọng thơ nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người. Bài thơ vừa toát lên vẻ đẹp của nhân vật trữ tình, toát lên vẻ đẹp của tình yêu đôi lứa vừa thể hiện được sự gắn bó sâu nặng của nhà thơ Nguyễn Bính với làng quê, với những nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
Có thể thấy, “Mưa xuân” là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Bính, nó “đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta” (Hoài Thanh). Câu chuyện tình yêu của cô gái thôn quê được kể trong một đêm vào cữ mưa xuân đã làm sống dậy những rung cảm chân thực, tinh tế, những khát vọng về tình yêu, hạnh phúc của con người.
Cảnh quê trở thành đất sống cho câu chuyện tình, và chính những thổn thức, rung động trong lòng cô gái đã làm cho cảnh quê trở nên có hồn, mang tâm trạng. Tình và cảnh hòa quyện vào nhau, mang vẻ đẹp “chân quê”, mang vẻ đẹp rất riêng của thơ Nguyễn Bính giữa bức tranh đa sắc màu, hiện đại của thơ mới.
Chất chứa sau mỗi dòng thơ là những cung bậc cảm xúc chân thật, là tiếng lòng của cô gái đang yêu và cả nỗi khắc khoải, đợi chờ trong tình yêu. Vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và nỗi khát vọng tình yêu cháy bỏng của cô gái chính là điểm lắng sâu làm nên giá trị, sức sống của bài thơ.