Kiểm soát cáp quang biển cũng là cách các tập đoàn bành trướng vị thế trong thời đại công nghệ.
Nhu cầu viễn thông tăng cao
Đại dịch Covid-19 đã nâng cao vai trò và tầm quan trọng của ngành dịch vụ viễn thông. Các tổ chức y tế, cơ quan chính phủ, doanh nghiệp thương mại, thậm chí người tiêu dùng, đã phụ thuộc nhiều hơn vào các dịch vụ viễn thông do hạn chế đi lại hay lệnh phong tỏa.
Vào đầu năm 2020, cuộc khủng hoảng Covid-19 khiến hàng loạt quốc gia phải đóng cửa biên giới, thúc đẩy nhu cầu băng thông tăng cao chưa từng có. Làm việc nhà, giáo dục, giao tiếp, giải trí đều chuyển sang trực tuyến trong thời gian này.
Tình trạng phong tỏa, giãn cách xã hội và làm việc tại nhà cũng thúc đẩy người dân tìm kiếm phương pháp mới duy trì hoạt động kinh doanh và đời sống liên tục, biến kết nối Internet trở thành nhu cầu cơ bản.
Các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông (CSP) đang tích cực mở rộng phạm vi sử dụng cáp quang, dung lượng mạng trên cáp quang cũng như mạng không dây. Họ không ngừng đầu tư nâng cao tốc độ, phạm vi phủ sóng không dây, cáp quang biển.
Trong bối cảnh khủng hoảng Covid-19, thị trường cáp quang biển tại Mỹ ước tính đạt 13,3 tỷ USD vào năm 2020, dự kiến đạt quy mô 30,8 tỷ USD đến năm 2026. Cáp quang biển chiếm ưu thế lớn về lưu lượng thoại và dữ liệu quốc tế, có độ tin cậy, bảo mật và dung lượng cao.
Ước tính cáp quang chịu trách nhiệm cho 95% lưu lượng truy cập Internet quốc tế, liên kết với nhiều trung tâm dữ liệu và điện toán đám mây. Hệ thống cáp quang kết nối các quốc gia được chôn dưới nước, còn gọi là cáp quang biển, có tổng độ dài khoảng 1,3 triệu km.
Nhu cầu Internet tốc độ cao ngày càng cao đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nhu cầu về băng thông rộng trên toàn cầu, thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường cáp quang biển. Và nhiều tập đoàn công nghệ lớn (Big Tech) hiện nay đã nhanh chóng đón đầu xu hướng này.
Trên thực tế, xu hướng các tập đoàn công nghệ lớn chiếm lĩnh cáp quang biển đã xuất hiện khoảng một thập kỷ. Trước đây, phần lớn cáp quang biển do công ty viễn thông, chính phủ các nước triển khai nhưng nay, chuyển dịch sang các hãng công nghệ như Microsoft, Alphabet (công ty mẹ của Google), Facebook, Amazon… Trước năm 2012, tỷ lệ băng thông cáp quang biển do công ty công nghệ kiểm soát chưa đến 10% nhưng hiện nay đạt khoảng 66%.
Các công ty dịch vụ viễn thông truyền thống đang tụt hậu trong cuộc đua băng thông toàn cầu. Khi điện toán đám mây và trung tâm dữ liệu lan rộng khắp thế giới, Google, Amazon, Facebook và Microsoft bắt đầu “nhúng tay” vào hệ thống cáp quang biển. Google đã xây dựng hệ thống cáp quang biển của riêng mình.
Còn Facebook ủy quyền cho Tập đoàn điện tử và công nghệ thông tin NEC xây dựng tuyến cáp quang biển có dung lượng cao nhất thế giới. Khi hoàn thành, nó sẽ cho tốc độ 500 terabit mỗi giây.
Lợi ích khi kiểm soát cáp quang biển
Cáp quang xuyên đại dương là “xương sống” của mạng viễn thông toàn cầu. Sự thay đổi quyền kiểm soát chúng phản ánh tốc độ phát triển nhanh chóng của các trung tâm dữ liệu dành cho điện toán đám mây và phân phối nội dung.
Lưu lượng truy cập giữa các trung tâm dữ liệu đang tăng nhanh chóng mặt, ước tính tăng 20 đến 30% mỗi năm. Nhưng chi phí mua dung lượng cáp ngày càng cao khi so với tốc độ tăng trưởng này. Nếu sở hữu cáp quang riêng, các tập đoàn có thể tiết kiệm tiền trả cho các công ty dịch vụ viễn thông.
Không chỉ giảm chi phí, sở hữu hệ thống cáp biển riêng còn mở rộng khoảng cách giữa
Microsoft, Google hay Amazon với các đối thủ tiềm năng, góp phần nâng cao vị thế của các ông lớn trong lĩnh vực công nghệ.
Ngoài ra, các tập đoàn cũng tích cực tham gia vào kế hoạch mở rộng dung lượng dữ liệu của cáp quang biển. Năm 2018, Facebook và Google đã đánh cược vào việc mở rộng băng tần truyền diễn của các sợi quang bằng cách thêm tín hiệu ở hàng trăm bước sóng mới để thu được 24 terabit thông qua một sợi cáp duy nhất.
Hai ông lớn cũng đặt cược vào một cách tiếp cận khác là tăng số lượng sợi cáp trong cáp. Thông thường một sợi ống thường có từ 6 đến 8 sợi quang. Nhưng các nhà phát triển tin rằng, nếu cải thiện khả năng truyền tải điện và bộ khuếch đại quang học sẽ cho ra đời thế hệ cáp mới, mang từ 16 đến 25 sợi quang.
Đơn cử, cáp ngầm Dunant của Google dài 64.000 km kết nối bãi biển Virginia, Mỹ, với Siant-Hilaire-de-Riez trên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp. Tuyến cáp này có thiết kế ghép kênh phân chia không gian qua 12 cặp sợi quang với tổng công suất 250 terabit mỗi giây. Cáp xuyên Đại Tây Dương của Facebook cũng sẽ mang 24 cặp sợi quang, mỗi cặp mang hơn 20 terabit mỗi giây và cho tổng công suất kỷ lục là 500 terabit mỗi giây.
Tuy nhiên, các tập đoàn công nghệ lớn không làm việc độc lập mà thường đầu tư phối hợp với các công ty dịch vụ viễn thông. Đơn cử, cáp quang do Facebook ủy quyền cho Tập đoàn NEC xây dựng. Hay tuyến cáp Marea được xây dựng năm 2017 do Microsoft, Facebook và Telxius, nhà mạng Tây Ban Nha, đồng sở hữu.
Việc chia sẻ băng thông giúp mỗi công ty đều có thể hoạt động trên nhiều sợi cáp, giữ cho các dịch vụ hoạt động ổn định trong trường hợp cáp bị đứt. Bởi lẽ hệ thống cáp biển hỏng khoảng 200 lần/năm. Việc sửa chữa cáp cần huy động nhiều nguồn lực, có thể kéo dài hàng tuần.
Đây cũng là cách để các tập đoàn công nghệ tránh rơi vào vai trò mới là “công ty viễn thông” vì họ có thể bị áp đặt hàng nghìn trang quy định luật pháp nếu tham gia vào lĩnh vực này.