Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một dòng thời gian về thời điểm và địa điểm mà loài ve chân đen (Ixodes scapularis) lây lan từ những năm thập kỷ 60, khi chúng lần đầu tiên được phát hiện ở bang Wisconsin và Minnesota.
Nhóm nghiên cứu đã xác định chính xác một số yếu tố môi trường giúp bọ ve di chuyển từ nơi này sang nơi khác và sử dụng dữ liệu này, họ dự đoán được nơi tiếp theo mà chúng sẽ lan tới.
Vào cuối năm 2021, bọ chét chân đen có thể sẽ được phát hiện ở 42 quận khác ở Trung Tây. Và chúng sẽ mang theo vi khuẩn Borrelia burgdorferi, vi khuẩn gây bệnh Lyme.
Vi khuẩn tạo nên vết phát ban có thể tồn tại trên da khoảng một tháng. Sau đó, nhiễm trùng có thể lan ra các phần còn lại của cơ thể, gây đau nhức, mệt mỏi và sốt. Nếu không được điều trị, bệnh Lyme có thể gây ngứa ran ở tay chân, viêm khớp và những thay đổi về mặt thần kinh, chẳng hạn như mất trí nhớ và tê liệt.
Tác giả nghiên cứu Allison Gardner, Giáo sư sinh học và sinh thái học tại Đại học Maine cho biết: “Bọ ve được cho là vật trung gian duy nhất của bệnh Lyme đối với con người” với Ixodes scapularis là loài có ảnh hưởng lớn nhất.
Do một số triệu chứng của bệnh Lyme trùng lặp với các triệu chứng của các bệnh khác, chẳng hạn như bệnh zona, các bác sĩ cần phải biết về các quần thể bọ ve gần đó để xác định xem có phải là bệnh Lyme hay không, theo GS Allison Gardner. Nếu được xác định nhanh chóng, hầu hết các trường hợp mắc bệnh Lyme có thể được điều trị bằng thuốc kháng sinh trong vài tuần.
Mô hình của nhóm đã sử dụng dữ liệu cấp hạt về các báo cáo bọ ve và dữ liệu môi trường từ khu vực, chẳng hạn như số lượng sông và độ che phủ rừng ở các hạt khác nhau; họ cũng theo dõi tỷ lệ mắc bệnh Lyme bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu CDC, các bài báo trên tạp chí và dữ liệu cấp quận.
Và họ phát hiện ra bọ ve lan truyền theo kiểu sóng. Không có gì đáng ngạc nhiên, yếu tố dự đoán lây lan mạnh nhất là liệu một hạt không có bọ ve có nằm cạnh một hạt nơi bọ ve đã được phát hiện trong vòng 10 năm trước hay không.
Gardner cho biết, độ che phủ rừng lớn hơn được chứng minh là một yếu tố quan trọng khác, có thể là bởi vì động vật rừng, chẳng hạn như hươu đuôi trắng và chuột chân trắng, là vật chủ của bọ ve.
Các con sông cũng làm tăng nguy cơ bọ ve lây lan sang một vùng. Tác giả nghiên cứu Brian Allan, Giáo sư côn trùng học tại Đại học Illinois Urbana-Champaign, cho biết: “Ví dụ như ở Illinois, bọ ve đầu tiên xuất hiện dọc theo sông Illinois và sau đó lan tỏa ra khắp dòng sông khá nhanh”.
Gardner cho biết, các con sông thường đóng vai trò là “hành lang của động vật hoang dã”, có nghĩa là các loài động vật cũng mang ve như hươu và chim di cư, thường xuyên di chuyển dọc theo chiều dài của chúng.
Trong các năm từ 2012 - 2016, mô hình đã dự đoán sự xuất hiện của bọ ve ở các hạt mới với độ chính xác hơn 90%, vì vậy nhóm nghiên cứu sau đó đã sử dụng mô hình này để đưa ra dự đoán về năm 2021.
GS Allison Gardner lưu ý rằng, việc khảo sát bọ ve rất tốn sức người và tiền của, bao gồm đến việc đặt bẫy và kiểm tra động vật hoang dã địa phương để tìm bọ ve, cũng như kiểm tra những con mồi mà mọi người mang đến các trạm săn bắn.
“Những người khảo sát cũng có thể kéo những mảnh vải lớn xuyên qua rừng và đếm tất cả số bọ ve bám vào”, cô nói. Việc đánh dấu các khu vực có nguy cơ bị xâm lấn cao có thể giúp các hạt nhận được tài trợ cho những nỗ lực trên.