Đã có những báo hiệu về sự mệt mỏi trong xếp hạng và lời dự báo rằng xếp hạng đại học đang đến hồi kết.
Một số câu hỏi sau đây được đặt ra: 1) Đâu là những tác động tích cực và tiêu cực của xếp hạng đại học? 2) Xếp hạng đại học đã được vận dụng vào giáo dục đại học Việt Nam như thế nào? 3) Vì sao có sự mệt mỏi trong xếp hạng và liệu xếp hạng đại học đã đến hồi kết. ChatGPT đã trả lời các câu hỏi trên trong vòng vài phút. Bài viết này được hình thành từ các câu trả lời của ChatGPT trên cơ sở biên tập, chỉnh sửa, bổ sung, cập nhật các nội dung cần thiết.
Ưu điểm và hạn chế, tồn tại của xếp hạng đại học
Xếp hạng đại học đã và vẫn đang là chủ đề tranh luận rộng rãi trong cộng đồng học thuật. Tựu trung các ưu điểm của xếp hạng đại học là cung cấp cho cơ sở GDĐH tính minh bạch và trách nhiệm giải trình; hỗ trợ cơ sở GDĐH thúc đẩy quốc tế hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút nguồn lực cùng tài trợ.
Bên cạnh đó là những hạn chế, tồn tại sau đây: Xếp hạng thúc đẩy một sân chơi không bình đẳng, làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng về kinh tế và xã hội giữa các cơ sở GDĐH. Hơn nữa, xếp hạng chú trọng quá nhiều vào các phép đo định lượng và đánh giá thấp các đánh giá định tính như sự hài lòng của sinh viên và chất lượng giảng dạy, do đó một mặt dẫn đến văn hóa đại học bị méo mó, mặt khác thúc đẩy “trò chơi xếp hạng” bằng cách hướng các nguồn lực, giảng viên và sinh viên vào các hoạt động mà bảng xếp hạng cho là quan trọng.
Vì vậy, đã có khá nhiều đề xuất nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của xếp hạng. Kết quả là, hiện nay, xếp hạng đại học đã phát triển mạnh với những mô hình mới bên cạnh các mô hình truyền thống. Báo cáo năm 2021 của Nhóm chuyên gia xếp hạng quốc tế IREG cho biết có 15 xếp hạng đại học toàn cầu, 3 xếp hạng phái sinh đại học toàn cầu (Global university sub-ranking), 2 xếp hạng chuyên biệt toàn cầu, 5 xếp hạng toàn cầu theo chủ đề, 7 xếp hạng đại học theo khu vực, 12 xếp hạng các đại học kinh doanh, 2 xếp hạng hệ thống GDĐH.
Những mô hình xếp hạng mới, như xếp hạng theo khu vực, xếp hạng hệ thống GDĐH, xếp hạng chuyên biệt cho thấy “những rạn nứt ngày càng sâu sắc trong giới học thuật toàn cầu về các mục đích lớn hơn của GDĐH và cách thức đo lường tiến bộ của nhà trường đại học trong việc theo đuổi những mục đích này” (1).
Chính những rạn nứt này mở đường cho tình trạng được gọi là sự mệt mỏi về xếp hạng.
Đại học Quốc gia TPHCM đứng thứ 2 trong Bảng xếp hạng 100 trường đại học Việt Nam 2023. Ảnh: INT |
Sự mệt mỏi về xếp hạng
Hiện tượng “mệt mỏi về xếp hạng” đề cập đến sự hoài nghi và mệt mỏi ngày càng tăng giữa các đại học và các bên liên quan đối với các hệ thống xếp hạng đại học. Điều này là do các hệ thống xếp hạng ngày càng trở nên phức tạp, nhưng rốt cục cũng chỉ đo thành công của các đại học dựa vào một điểm số duy nhất. Sự đơn giản hóa quá mức này có thể dẫn đến việc nhận dạng không đầy đủ hoặc không chính xác về điểm mạnh hoặc điểm yếu thực sự của từng đại học.
Sự mệt mỏi khi xếp hạng cũng có thể phát sinh từ những lý do khác. Đó là, các đại học có thể bắt đầu cảm thấy rằng việc tham gia vào các hệ thống xếp hạng là quá tốn thời gian hoặc chi phí, đòi hỏi các khoa đầu tư nguồn lực đáng kể vào việc thu thập và phân tích dữ liệu mà lẽ ra có thể sử dụng vào việc khác tốt hơn. Về phía sinh viên và giảng viên, họ có thể trở nên vỡ mộng với khả năng của các bảng xếp hạng trong việc phản ánh chính xác các mong muốn và thành công của họ, khiến họ phải tìm kiếm thông tin một cách khác.
Các trường đại học Mỹ đã bộc lộ sự mệt mỏi trước hết đối với các bảng xếp hạng trong nước của U.S. News & World Report (USNWR) ngay từ cuối các năm 1990. Sự phản đối đã trở thành phong trào vào năm 2007 khi có tới khoảng 80 chủ tịch trường đại học tuyên bố sẽ không tham gia vào các bảng xếp hạng của US News. Mới đây, tháng 11/2022, nhiều trường luật danh tiếng, đứng đầu là Trường Yale, tuyên bố rút khỏi xếp hạng USNWR vì các kỹ thuật khảo sát sai sót còn các công thức tính toán thì không rõ ràng và tùy tiện.
Trên phạm vi quốc tế, vào năm 2019, các đại học Hà Lan đã bắt đầu từ bỏ sử dụng bảng xếp hạng và chỉ số trích dẫn để đánh giá nhà trường và đội ngũ giảng viên. Vào năm 2020, Bộ Giáo dục và Bộ Khoa học và Công nghệ của Trung Quốc đã từ bỏ sự phụ thuộc vào chỉ số trích dẫn khoa học trong đánh giá, bổ nhiệm và thăng tiến. Đến năm 2022, ba đại học hàng đầu của Trung Quốc tuyên bố không tham gia xếp hạng quốc tế, mở đường cho định hướng xây dựng các đại học đẳng cấp quốc tế của Trung Quốc theo các chuẩn mực riêng phù hợp với các đặc sắc Trung Quốc.
Liên bang Nga thì tuyên bố dời bỏ Bologna và cho biết cũng không tham gia các bảng xếp hạng quốc tế, thay vào đó sẽ thiết kế một hệ thống mới để đáp ứng lợi ích quốc gia.
Những thay đổi đang diễn ra trong xếp hạng cho thấy sự mệt mỏi như đã nêu trên. Tuy nhiên, có một thực tế là việc xếp hạng đại học, dù đang có dấu hiệu của sự mỏi mệt, đã dẫn đến một hội chứng gần như toàn cầu. Đó là “hội chứng xếp hạng” trong đó dường như bất kỳ quốc gia nào cũng tuyên bố công khai hoặc ngấm ngầm về việc xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế hoặc nâng vị thế của các đại học hàng đầu của mình trên các bảng xếp hạng quốc tế. Hội chứng này có thể đã giảm đi phần nào vì sự mệt mỏi về xếp hạng nhưng vẫn còn đó, đặc biệt ở nhiều nước đang phát triển.
Sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh minh họa: INT |
Xếp hạng đại học ở Việt Nam
Trong Nghị quyết 14 về đổi mới cơ bản, toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020, chúng ta đã đặt mục tiêu “xây dựng một vài trường đại học đẳng cấp quốc tế”. Mục tiêu này đã sớm không còn được nhắc tới nhưng thay vào đó là mục tiêu đến “năm 2020 có 1 trường đại học được xếp hạng trong số 200 trường đại học hàng đầu thế giới” được quy định trong Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020.
Đến nay mục tiêu trên vẫn còn xa. Dù sao sau hơn một thập kỷ cố gắng, chúng ta cũng đã gặt hái được kết quả khích lệ khi trong bảng xếp hạng đại học châu Á của QS 2023, có 11 cơ sở GDĐH Việt Nam góp mặt trong tổng số 760 cơ sở của châu Á được xếp hạng.
Mặt được của xếp hạng đại học quốc tế đối với Việt Nam là ở chỗ cải thiện khả năng hiển thị quốc tế của các cơ sở GDĐH Việt Nam, khuyến khích các cơ sở GDĐH phát triển văn hóa chất lượng, tập trung vào việc cải thiện nghiên cứu, giảng dạy và thúc đẩy sự xuất sắc trong học tập.
Tuy nhiên, việc xếp hạng theo các bảng xếp hạng quốc tế đang đối diện một số nhược điểm chung như đã nêu trên, trong đó cần lưu ý rằng hầu hết các hệ thống xếp hạng được thiết kế dành cho các nước phát triển và dù có được cải thiện để tính tới đặc trưng của khu vực, thì không phải lúc nào cũng tính đến những thách thức và thế mạnh riêng của hệ thống GDĐH Việt Nam.
Để khắc phục các nhược điểm nêu trên, vấn đề đặt ra là Việt Nam cần xây dựng mô hình xếp hạng phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.
Trong một thập kỷ qua, đã có một số đề xuất ban đầu về xếp hạng quốc gia nhưng không được đánh giá cao vì thiếu độ tin cậy cần thiết về mặt phương pháp luận cũng như dữ liệu. Hiện có hai bảng xếp hạng đang được quan tâm:
Bảng xếp hạng đối sánh đại học Việt Nam (University Performance Metrics, UPM): Đây là mô hình xếp hạng, theo hình thức gắn sao (star rating), được phát triển bởi Đại học Quốc gia Hà Nội, gồm 8 tiêu chuẩn, 54 tiêu chí, nhằm đánh giá chất lượng cơ sở GDĐH từ góc độ đổi mới sáng tạo và thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Xếp hạng UPM hiện có sự tham gia của gần 100 cơ sở GDĐH và chương trình đào tạo từ 7 quốc gia và vùng lãnh thổ (Việt Nam, Brunei, Indonesia, Myanmar, Philippines, Thái Lan và Đài Loan), để vừa quản trị chất lượng, quản trị sự thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0, đồng thời quản trị thương hiệu và công khai chất lượng, thực hiện trách nhiệm xã hội.
Bảng xếp hạng đại học Việt Nam (VNUR): Bảng xếp hạng này được thực hiện trong khuôn khổ hoạt động của Công ty TNHH phi lợi nhuận Vietnam Education Index, gồm 6 tiêu chuẩn, 17 tiêu chí, phản ánh các sứ mệnh cốt lõi về đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội, nhằm tạo được sự đối sánh toàn diện và cân bằng, qua đó đảm bảo độ tin cậy cao đối với các bên có liên quan. Điểm đặc biệt là VNUR thu thập dữ liệu độc lập từ nhiều nguồn khác nhau như báo cáo ba công khai, kết quả kiểm định chất lượng, đề án tuyển sinh, để trên cơ sở đó, mới đây, chính thức công bố top 100 cơ sở GDĐH trong nước năm 2023.
Các kết quả xếp hạng trên cho thấy bước tiến của GDĐH Việt Nam trong bức tranh xếp hạng thế giới và cũng cho thấy, dù ở đâu đó có sự mệt mỏi về xếp hạng, thì ở Việt Nam xếp hạng đại học vẫn giành được sự quan tâm đặc biệt.
Đã đến hồi kết?
Có hai luồng ý kiến khác nhau liên quan đến việc trả lời câu hỏi này.
Một luồng ý kiến cho rằng, tình trạng mệt mỏi về xếp hạng là dấu hiệu cho thấy thị trường xếp hạng đại học toàn cầu bắt đầu thoái trào. Vì thế đã đến lúc các quốc gia dừng quan tâm đến các bảng xếp hạng toàn cầu mà hãy tập trung xây dựng hệ thống GDĐH quốc gia dẫn dắt bởi các đại học hoa tiêu, tức là các mô hình đại học không bỏ qua chuẩn mực quốc tế về sự ưu tú, nhưng đặt nền tảng vững chắc trên sự phục vụ nhu cầu thực sự của quốc gia.
Luồng ý kiến thứ hai cho rằng, các biểu hiện về sự mệt mỏi xếp hạng chỉ có nghĩa là các bảng xếp hạng còn có khiếm khuyết. “Các hành động của Trung Quốc và Nga, cũng như của các trường luật Hoa Kỳ, đều không có khả năng làm suy yếu giá trị mà bảng xếp hạng mang lại cho các quốc gia và nhà trường trước nhu cầu tăng cường sự hiện diện của mình trong khoa học toàn cầu hoặc nền kinh tế thế giới” (2). Vì thế, các bảng xếp hạng toàn cầu khó mà biến mất sớm.
Cả hai luồng ý kiến cho thấy một thực tế là, một mặt các chính phủ vẫn có nhu cầu thấy sự hiện diện của GDĐH nước mình trên các bảng xếp hạng quốc tế; mặt khác các chính phủ cũng như người dân còn có nhu cầu thấy được sự xếp hạng quốc gia của các cơ sở GDĐH phù hợp với bối cảnh trong nước. Về phía các tổ chức xếp hạng, với tư cách là nhà cung ứng sản phẩm trong một thị trường xếp hạng, thì họ sẽ không ngừng điều chỉnh, hoàn thiện để có thể đáp ứng các nhu cầu khác biệt và khó tính của mọi bên có liên quan. Vì vậy khó mà nói rằng các bảng xếp hạng quốc tế cũng như quốc gia đã đến hồi kết.
______________________________
Chú giải ảnh:
(1): Alex Usher. 2022. The Fracturing of Global Rankings. https://higheredstrategy.com/the-fracturing-of-global-rankings/.
(2): Ellen Hazelkorn. 2022. Pressure on rankings may lead to a more meaningful exercise. University World News, 17 December 2022.