Vun trồng cội Hiếu

GD&TĐ - Hiếu đạo là đạo lý từ ngàn xưa trong mọi xã hội. 

Tết chính là một dịp để cha mẹ giáo dục con cái những lễ nghĩa, phong tục đã trở thành bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Ảnh minh họa: INT
Tết chính là một dịp để cha mẹ giáo dục con cái những lễ nghĩa, phong tục đã trở thành bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Ảnh minh họa: INT

Ứng xử có hiếu đạo là ứng xử truyền thống, được truyền lại, tiếp nối, được ca tụng, dặn nhau giữ gìn như giữ nhịp thở vào ra để được làm người, còn được làm người. Thực tế, người con có hiếu luôn được mọi người thương mến, lấy làm tấm gương.

Hiếu quan trọng trong tâm thức người Việt nên hằng năm, hòa trong tinh thần Vu lan của Phật giáo, người Việt xem tháng Bảy âm lịch là “mùa báo hiếu”. Nhưng, thực ra, hiếu thì không có mùa, nghĩa là không phải đợi tới tháng Bảy mới nhắc nhớ, bày tỏ hiếu ân, mà trong mỗi ngày, từ những hành động nhỏ: Đi thưa về trình, mời người lớn đi trước, dùng cơm hoặc lắng nghe chỉ bảo, chia sẻ kinh nghiệm...

Đối với người Việt, hiếu còn được thể hiện trọn vẹn trong mỗi dịp cuối năm, Tết nhất với việc quay trở về, hướng đến tiên tổ ngàn đời, tri ân ông bà, cha mẹ dù người đã khuất hay còn tại thế. Lòng người háo hức đón xuân mới không chỉ là niềm vui cho mình, mà còn là cơ hội để trở về bên trong, để mình được “gặp” năng lượng của tổ tiên, tiếp thêm sức mạnh tự thân và nhắc nhở con cháu đừng quên tri ân, báo ân.

Tổ tiên có trong mỗi người

Từ “nếp nhà” của người Việt rất hay. Bởi, chỉ hai từ ấy đã diễn tả trọn vẹn hình ảnh của mỗi dòng tộc, gia đình, những cái thói quen (nếp) của từng thành viên tạo nên, được gắn chặt vào giềng mối huyết thống, được truyền thừa, tiếp nối.

“Tết nhứt, con cháu phải về quê cha đất tổ để cúi đầu trước tiền nhân, thắp cho ông bà tổ tiên nén nhang chứ đừng viện lý do này lý do khác rồi thoái thác”, bạn tôi, một người con miền Tây, quê ở An Giang chia sẻ lời dặn dò này từ ông nội mình. “Ông nội nhận lời truyền dạy ấy từ chính cha, ông của nội”, bạn kể. Đó như một tài sản quý mà người trước để lại, dặn dò con cháu, làm gì thì làm cũng đừng quên nguồn cội.

Cúi đầu trước tiền nhân là cúi đầu trước những người đã sinh ra mình, truyền lại cho mình nếp sống, đạo đức và cả trí tuệ. Sợi dây trao truyền ấy không chỉ là lời nói (khẩu giáo), việc làm (thân giáo) - hay là cách sống, nếp nghĩ của ông cha, mà còn cả những thiện ác tác tạo từ nhiều thế hệ “để lại” cho con cháu.

Người Việt có câu “cha ăn mặn, con khát nước” chính ở chỗ nói về sự truyền thừa này. Câu nói này rất sâu, có tính giáo dục để mỗi người lớn trong đời sống, cẩn thận từ lời ăn tiếng nói, suy nghĩ, việc làm để không “ăn mặn” - không tác tạo các nhân duyên không thiện, phải để lại tiếng xấu và cả hệ quả không tốt cho thế hệ sau.

Thực tế, nếu ông bà, cha mẹ, dòng tộc được xây nên từ gốc rễ thiện lương thì sẽ giúp cho con cháu có nền tảng tốt để trau dồi đạo đức và phát triển tài năng. Có những dòng tộc, nhờ cha ông biết tạo dựng phước đức mà thế hệ sau cũng năng làm việc lợi mình, lợi người, giúp kiến tạo nên sức mạnh nội tại cho dòng tộc ấy.

“Con vua lại được làm vua, con sãi ở chùa đi quét lá đa”. Câu ca này không phải chỉ để nói về tính giai cấp trong xã hội phong kiến cha truyền con nối mà sâu xa hơn trong nếp nghĩ người xưa chính là nếp nhà truyền lại. Cũng giống như cha ăn mặn con khát nước. Ông bà, cha mẹ nếu không ý thức vun trồng đạo đức, nếp sống thiện cho con cháu từ nhỏ, lấy điều này làm nếp nhà thì con cháu không có chỗ vịn vào để lớn lên và có mạch nguồn sâu chắc để dưỡng nuôi cho nhiều thế hệ.

Trong các đạo đức làm người, thì tri ân, báo hiếu chính là đạo lý cao tột. Nhờ tri ân, biết báo hiếu, con người biết giữ mình, kiên quyết lựa chọn giữ mình trước gió dông, cám dỗ, không ngừng nỗ lực để tử tế trong mọi việc, từ đó có điều kiện để thành công, đạt được những giá trị cao hơn trong xã hội.

Thực ra, người hiền tài luôn được trọng dụng. Do vậy, nếu trong gia đình, người con biết hiếu nghĩa, năng tri ân tiền nhân, biết cúi mình trước những ơn sâu đã thọ nhận thì ra xã hội cũng sẽ biết trân trọng những giá trị mình nhận về trong tương quan nhân - duyên của cuộc sống này.

vun-trong-coi-hieu-2.jpg
Báo hiếu không chỉ ở việc thờ cúng sau khi cha mẹ, ông bà đã qua đời mà phải thể hiện ngay trong đời sống. Ảnh minh họa: Duy Nhựt

Hiếu trong ngày Xuân

Tri ân, báo hiếu thì phải làm gì, nhất là dịp Tết nhất? Truyền thống người Việt xem dịp Tết nhất là mùa đoàn viên. Dù có đi xa, ở đâu cũng cố gắng quay về trong dịp này. Tất nhiên, trừ những ngoại lệ bất khả kháng còn trong tâm thức người Việt, về quê ngày Tết là việc quan trọng nhất trong năm. Có lẽ vì thế mà mỗi mùa cuối năm, cận Tết lòng người lại chộn rộn, đếm ngược về Tết. Đường về kẹt cứng, nhọc mệt, tàu xe vất vả vẫn không cản được lòng vui chờ Tết ấy.

“Hăm mấy về quê đó?”, “Mua vé tàu xe gì chưa?”, “Sắm đồ Tết, chuẩn bị quà cho bố mẹ rồi ha?”… Những đồng nghiệp, người thân thương của nhau quan tâm hỏi han, không phải để tọc mạch mà để vui cùng, đôi khi để “gửi ké” một hộp trà, gói bánh mứt, gọi là tấm lòng thảo thơm dành cho nhau và cũng vì hiểu đó là một cách quan tâm dành cho nhau.

Quay về trong dịp Tết, nhìn thấy nụ cười của cha, sẻ chia công việc dọn dẹp nhà cửa với mẹ, hoặc chở mẹ đi chợ những ngày trước Tết để thấy mẹ vui như thế nào khi thấy con về… Tất cả là những nhặt nhạnh hạnh phúc giản dị nhưng sâu lắng, bởi mỗi năm người thân của mình càng lớn tuổi thêm. Hơn nữa, cuộc sống vô thường, những cuộc trùng phùng bằng da bằng thịt, bằng mắt thật thấy nhau qua từng làn da, cử chỉ đối với những người con đi xa cha mẹ không còn nhiều.

Công nghệ có thể hỗ trợ mình nghe được giọng nói thân thương, thấy được dáng hình quen thuộc của người thân nhưng không thể cảm được hơi ấm và niềm vui chạm mặt hằng ngày. Có mặt cho nhau trọn vẹn trong ngày Tết theo Tiến sĩ Xã hội học, Thạc sĩ Tâm lý Phạm Thị Thúy, giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia TPHCM đó chính là món quà tặng thời gian chất lượng cho người thân.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong đoản văn Bông hồng cài áo viết năm 1962 nói về lòng hiếu dường như vẫn còn nguyên giá trị khi nhấn mạnh đến sự có mặt trọn vẹn cho cha mẹ của mình qua hình tượng vào phòng mẹ, bắt mẹ dừng kim chỉ và đừng nói năng chi, hãy nhìn mẹ thật kỹ rồi nói với mẹ rằng: “Mẹ có biết là con thương mẹ lắm không?”. Tình thương sẽ được biểu hiện qua nhiều cách, hiếu nghĩa cũng vậy. Thương mẹ thương cha không chỉ là trao đôi ba món quà vật chất, mà còn cả sự cảm thông cho tuổi già chậm chạp, trí nhớ giảm sút của họ.

Tôi vẫn nhớ câu nói trong một vở kịch không nhớ tên mà mình xem vài năm trước, bà mẹ thốt lên lời dặn trong nước mắt rằng: “Con đừng chê má già”. Hiểu được quy luật sinh, lão, bệnh, tử của con người ta sẽ thương cha mẹ mình nhiều hơn trước sự khắc nghiệt của thời gian để không chỉ trở về trong dịp Tết mà bất cứ khi nào có thể. Hạt giống ấy ta cũng đang gieo cho chính mình trong mai hậu, khi chắc chắn tới lúc mình sẽ già.

Thực tế, có những người con vì khá bận rộn đã không thường về quê với cha mẹ, nhưng cũng có những người con ở chung nhà trong cùng một thành phố vẫn không trọn vẹn thời gian. Thời hiện đại, con người bị chi phối bởi nhiều thứ, ngoài công việc có khi còn là “sống ảo” trên mạng xã hội, thú vui bên ngoài, những “lôi kéo” khác…

Người già thường cô đơn và mong con về, những cuộc trò chuyện sâu để hiểu và sẻ chia tâm trạng buồn vui thất thường cũng như chính những cơn đau bất chợt không chỉ đến trong lúc trái gió trở trời của họ quý lắm. Tết là cơ hội để làm việc đó.

Cho con cháu về thăm ông bà dịp Tết có lẽ là hạnh phúc khó tả của người lớn tuổi. Nhìn con cháu, họ thấy chính họ trong một đoạn đời đã qua. Họ có thể dành cho con cháu bao lì xì đỏ sáng mùng 1 Tết và nghe cháu nhỏ vòng tay lễ phép chúc ông bà sức khỏe, sống lâu. Khung cảnh ấm áp ấy chính là bài học quý để con cháu có ký ức đẹp mà lớn lên.

Ông bà kể cho con cháu Tết xưa, nghe con cháu nói về những dự định của chúng trong năm mới, vui vẻ, khích lệ, cầu nguyện ông bà tổ tiên chứng giám. Sự có mặt cho nhau và trong nhau vào những dịp Tết nhất là chất liệu gắn kết, là cơ hội để vun trồng hiếu ân, khơi lên mầm hạnh phúc, bình yên từ đốm lửa đêm 30, khoảnh khắc Giao thừa.

Bắc nồi bánh chưng, mang cành mai vào nhà…

Tôi từng đọc câu nói khá hay của A Tan, “Ký ức nuôi dưỡng tâm hồn”. Mỗi con người, ngoài phần xác thân mượn vay từ đất, nước, gió, lửa (tứ đại) thì tâm hồn là mảnh vườn, góc ruộng màu mỡ và cũng mầu nhiệm biết bao nếu ta biết xới vun, gieo vào đó những hạt giống thiện lành.

Cũng như một luống rau hay vườn hoa, hạt giống phải tương ưng, công chăm cũng dày dặn thì mới có thể trở nên tươi tốt, đầy màu sắc. Hoa và rau là hai món không thể thiếu mỗi dịp Tết nhứt, Xuân về, một thứ dưỡng thân, một thứ nuôi tâm. Có hoa lòng người vui. Tâm hồn cũng vậy, nếu để cỏ mọc lu lấp sẽ chẳng thể nào khiến ta có nụ cười và mùa Xuân của đất trời dẫu cứ đến đi theo quy luật thời gian thì ta cũng héo queo. Không có bình an, ta lấy chi tặng cho người thân của mình?

Ký ức được gom vào bằng những dịp sum vầy, những khoảnh khắc thiêng liêng. Tết, dọn bàn thờ, bao sái nhà cửa đón ông bà về, cũng là đón con người mới của mỗi thành viên trong gia đình.

“Năm mới ta cũng mới” (Thiền sư Thích Nhất Hạnh). Cái mới bên ngoài và làm mới từ bên trong bằng những tinh giản, bằng những sắp xếp ngay ngắn, dọn dẹp, điểm tô. Khoảnh khắc thiêng liêng nhất năm có lẽ là giờ Giao thừa, khi tiếng pháo hoa bung nở trên bầu trời, mọi người trở về lắng đọng hoặc hong tay bên bếp lửa nấu bánh chưng, bánh tét, để sáng mai dâng lên tổ tiên. Tiếng cười rộn rã trong mỗi phút giây, từ nơi mỗi người chính là mạch nguồn ký ức tuyệt vời để thôi thúc người ta quay về trong thời khắc ấy.

Với tôi, mỗi khắc Giao thừa thường là cảm xúc thương nhớ ngoại mình, nhớ dáng còng, tóc bạc và nụ cười hiền lành cứ hay dặn con cháu “giấy rách phải giữ lấy lề”, “nghèo cho sạch, rách cho thơm”…

Tết, nhớ để lại bắc nồi bánh chưng lên, đem cây mai vào để trên góc bàn phòng khách như cách ngoại đã làm. Mỉm cười. Trong tâm thức con người, nhứt là những người thân, dẫu họ đã khuất nhưng ta vẫn thấy rất gần, thăm mộ họ ta không sợ mà thấy ấm áp. Tất cả chính nhờ tình thương dẫn lối. Tình thương cũng là một sợi neo để người ta quay về.

Giống như có người dẫu đã sống ở cách quê nửa vòng Trái đất, ở tuổi xưa nay hiếm nhưng ở quê còn mồ mả cha ông nên có dịp đều quay về, luôn tìm cơ hội để về thăm cho thỏa lòng. Chất liệu của những cụ ông, cụ bà gìn lòng thương quê nhớ cội ấy sẽ vô cùng quý để kể cho các bạn nhỏ mỗi mùa Xuân về.

“Ừ, thì Tết là dịp để sum vầy. Mỗi lần Tết, nội/ngoại trông ba/mẹ với tụi con về lắm, nên dù bận mấy ba mẹ cũng về”. Câu nói giản đơn này trả lời cho câu hỏi, sao Tết nào mình cũng về quê được lặp lại sau ba trăm sáu lăm ngày để in sâu vào lòng trẻ, rằng về quê đón Tết cũng là lòng hiếu thẳm sâu trong mỗi người…

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Nhà báo, Trung tá Đặng Trung Kiên tặng quà cho các em học sinh nghèo vượt khó trong chương trình thiện nguyện 'Nâng bước em đến trường'. Ảnh: NVCC

Giản dị mà thiêng liêng

GD&TĐ - Năm ấy tròn 20. Vừa tốt nghiệp Đại học Sư phạm, tôi được phân công về một trường THPT.