Nơi chiến trường ác liệt
Lên đây tôi mới biết vì sao dân A Lưới bao gồm các dân tộc: Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Pa Hi và Vân Kiều lại hay lấy họ của mình là họ Hồ. Vì gia phả của họ phần lớn để trong gùi và thời chiến phải chạy đi mất mát lưu lạc nhiều vì thế nhớ được tên còn họ thì mất. Sau đó, người A Lưới lấy tên Bác Hồ làm họ Hồ.
Vì những ngày chiến tranh gian khổ hạt muối rất quý của Bác Hồ, của miền Bắc đã vào được đến đây cho da người A Lưới đỡ xanh bủng, hồng cầu đỏ hơn, nhiệt huyết cách mạng sục sôi hơn. Mỗi lần đặt họ Hồ cho một người là cả một thủ tục thắp hương trước ảnh Bác Hồ như một nghi lễ thiêng chứng nhận.
Trước lúc lên A Lưới, tôi ngồi với tiến sỹ y khoa Phạm Nguyên Tường bên cái quán gió bờ sông Hương. Ông bác sỹ , thi sỹ này đặc biệt là rất mê A Lưới. Tường bảo: Tôi rất nhớ những lần vào A Đớt của huyện A Lưới trong những lần đi khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho đồng bào dân tộc.
Cái vùng đất ấy có đến 16% dân số bị nhiễm chất độc da cam. Hàm lượng đi - ô - xin trong gan, mật, ruột gà, vịt , heo, bò ở vùng này cao hơn mức cho phép. Vì thế, lên đây ngại nhất nguồn nước bị ô nhiễm từ những ngày Mỹ cho máy bay rải chất độc hóa học. Quả thật có lên A Lưới mới biết được năm xưa nơi đây là một chiến trường ác liệt.
Những di tích lịch sử còn giữ nguyên vẹn ký ức một thời. Bạn tôi kể về đồi A Bia còn gọi là đồi “Thịt băm” đó chính là cao điểm có độ cao 937m so với mặt nước biển mọc trong thung lủng A Lưới ở phía tây giáp ranh nước Lào. Ở đây đã diễn ra những trận đánh ác liệt giữa bộ đội quân giải phóng và lính Mỹ. Quả đồi này được mệnh danh là cái cối xay thịt đến nỗi lính Mỹ ám ảnh và gọi đây là “Hamburger” của chiến trường miền Nam Việt Nam. Không ngờ ở A Lưới vẫn còn lưu giữ những đường hầm địa đạo nối với những hang lớn. Nơi đây đã đặt đài phát thanh giải phóng trong những năm chiến tranh…
Mảnh đất và tình người
A Lưới tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ. Nơi đây chính là thượng nguồn của 5 con sông lớn. Chao ôi, 5 con sông xòe ra như năm ngón tay gợi mở mà tha thiết mà cuồn cuộn chảy. Trong đó có hai sông chạy sang Lào là A Sáp và A Lin. Còn ba con sông chạy sang Việt Nam là Đắkrông, sông Bồ và sông Hương. Tôi chợt nhớ đến bài thơ “Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Vào Huế lần này, tôi có đến thăm nhà thơ và được ông tặng tuyển thơ trong đó có bài thơ này. Khi biết chúng tôi ngày mai lên A Lưới, nhà thơ bảo: A Lưới hay lắm đó. Bí thư huyện là một nữ tiến sỹ văn hóa học còn rất trẻ đề tài luận văn của chị về dân ca của các dân tộc vùng A Lưới. Trẻ, dân tộc mà lại rất hiện đại. Lên đó thế nào cũng có chương trình giao lưu văn nghệ, nghe cô đó hát với vũ điệu trẻ trung thì thật tuyệt vời. Tôi hỏi nhà thơ:
Bài thơ đó ông viết trong hoàn cảnh nào? Nguyễn Khoa Điềm trầm ngâm: Hồi ấy mình ở trong ban tuyên huấn của khu ủy ở chiến khu A Lưới. Bài thơ đó kể về người mẹ dân tộc Tà Ôi vừa địu con trên lưng vừa giã gạo, tỉa bắp, góp phần sản xuất lương thực cho kháng chiến . Và mơ ước con mình ngày mai khôn lớn được sống trong đất nước tự do.Tình yêu con thiết tha, đằm thắm và tình yêu Tổ Quốc sâu nặng đan xen nhau làm một. Và bây giờ đi giữa A Lưới tôi lại càng thấm thía tâm hồn lãng mạn và phóng khoáng của người dân nơi đây. Hãy nghe họ ví von trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm: Mặt trời của bắp thì nằm trên núi - Mặt trời của mẹ , con nằm trên lưng.
Nhà văn trẻ Lê Vũ Trường Giang ở tạp chí Sông Hương đã kể cho tôi nghe những dấu ấn của mùa lễ hội ở A Lưới. Lễ hội ở đây có gì đó gắn với tâm linh với mùa màng, thiên nhiên. Ví như mùa lễ hội A Za hay còn gọi là tết mừng cơm mới – Lễ tri ân cây lúa. Giang kể : em đã lên A Lưới vào dịp đó mấy lần.
Đó là cái tết đồng bào khi kết thúc vụ mùa tiễn đưa năm cũ đón chào năm mới. Lễ hội Aza một năm được tiến hành một lần để cầu may nương rẩy xanh tươi mùa màng bội thu. Đây cũng là tết đoàn tụ xum vầy một nhà. Tôi hỏi anh: thế mâm cúng thường được chuẩn bị như thế nào? Giang bảo: Thực vật bao gồm lúa và nếp là lễ vật chủ đạo được nấu thành cơm hoặc là bánh bên cạnh khoai và sắn, môn và ngô...
Các phẩm vật động vật là những con vật nuôi trong nhà như dê, lợn, gà, vịt hoặc thú rừng săn bắn được họ luộc hoặc nướng. Đặc biệt hầu như nhà nào cũng cố gắng sắn được một con chuột rừng để dâng lên các Giàng. Từ chuột rừng, họ làm món A Dút hay còn gọi là A Lạp là món trộn thịt chuột nếp sắn và đọt chuối với một vài gia vị khác. Nhân nói chuyện ẩm thực hôm liên hoan ở A Lưới, chúng tôi được uống một loại rượu khá đặc biệt của đồng bào nơi đây đó là rượu Đoác.
Cây Đoác là cây họ dừa mọc khá nhiều ở các ngọn núi cao ở A Lưới giống như cây thốt nốt ở Campuchia mà tôi đã đã từng được thưởng thức rượu thốt nốt trong lần đi thăm đất nước chùa tháp. Thật lạ kỳ tôi được chứng kiến ông Quỳnh Hy ở thôn Ta Roi xã A Ngo lấy rượu Đoác ở cái túi chứa đầy trong thân cây Đoác có màu nước như nước vo gạo, bọt sủi.
Thường, mỗi cây Đoác trống ít nhất 3 – 5 năm mới cho rượu uống được. Việc lấy rượu ở cây Đoác mang về thật đơn giản: Chỉ cần lấy dao rạch một chỗ trên cái túi cho nước chảy theo ống lồ ô dẫn xuống can hoặc chai, mỗi cây lấy được từ 20 – 25 lít rượu. Đây là loại rượu lấy tự nhiên không pha hóa chất uống không đau đầu uống vào rất khỏe. Tôi nghĩ đây cũng là một chất men say cội nguồn để tạo hưng phấn cho những vũ điệu hồ hởi rộn ràng mà sinh động phóng khoáng của người dân A Lưới.
Đến A Lưới tôi bắt gặp một vẻ đẹp rất riêng đó là những tấm vải thổ cẩm với các hoa văn đường nét hài hòa, tinh xảo với lối phối màu mang lại một nhịp điệu sắc thái riêng. Tìm hiểu mới biết người dân tộc ở đây có một nghề truyền thống lâu đời làm ra các bộ sắc phục cho riêng mình đó là nghề dệt Zèng. Nghề dệt Zèng được lưu truyền qua nhiều thế hệ trong đó vai trò người phụ nữ, người mẹ rất quan trọng. Bởi khi cô gái lớn lên đều phải biết dệt tấm Zèng để khi đến tuổi lấy chồng tặng người trong gia đình nhà chồng.
Nguyên liệu để dệt là những sợi bông khai thác từ thiên nhiên nhuộm với nhiều sắc màu lấy từ vỏ cây hay củ nâu. Các loại hoa văn mô phỏng những con suối, dóc cao, cây cỏ chim rừng, đồ vật, những ngôi sao trên trời... có ý nghĩa đối với đời sống văn hóa và tâm linh của người A Lưới khát khao sự giao hòa trời – đất và con người. Đỉnh cao của nghệ thuật dệt Zèng ngoài những sáng tạo hoa văn độc đáo đủ các sắc màu là kỹ năng chèn cườm kết hợp với hệ sắc màu trên nền vải.
Người thợ dệt đưa các hạt cườm trực tiếp vào các sản phẩm. đây là công đoạn phức tạp đòi hỏi nghệ nhân có tay nghề cao. Năm 2016 “Nghề dệt Zèng” được Bộ VH-TT&DL công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Khi đến đây, tôi bắt gặp những nhóm người cùng ngồi dệt với nhau dưới sự hướng dẫn của những nghệ nhân cao tuổi họ vừa dệt vừa hát dân ca. Tiếng con xa quay, tiếng thoi dệt hoà chung thành một âm điệu, âm vang A Lưới...
Tấm lòng người A Lưới với lịch sử
Người dân A Lưới rất trân trọng và lưu giữ quá khứ lịch sử. Nhà văn hóa A Lưới được xây dựng khang trang trên một ngọn đồi dưới chân đồi là một bãi cỏ rộng có sân khấu ngoài trời khá quy mô với giàn âm thanh ánh sáng khá hiện đại. Trong nhà trưng bày có nhiều sản phẩm nông cụ sản xuất và cả những tấm vải thổ cẩm, những tấm ảnh đen trắng ngày trước và ảnh màu bây giờ được phóng to.
Bên cạnh đó là những vũ khí thô sơ của dân A Lưới những ngày đánh giặc. Tối hôm đó có chương trình giao lưu văn nghệ giữa A Lưới với đoàn văn nghệ sỹ nên trên bãi cỏ rộng đã sắp đặt những chum rượu cần những mâm cơm gồm các sản phẩm ẩm thực của người dân A Lưới do họ tự tay làm ra đãi khách. Chiều xuống dần núi rừng A Lưới bạt ngàn xanh sắp thiêm thiếp vào đêm tăng thêm vẽ bí ẩn hoang sơ và gợi mở. Tôi bỗng nghe tiếng reo hò vui vẻ làm náo động rộn ràng tươi trẻ của sân nhà văn hóa.
Thì ra một giàn hoa khôi người đẹp của núi rừng A Lưới bất ngờ xuất hiện như các cô tiên trong truyện cổ tích. Tất cả họ đều đèo nhau bằng xe máy từ các ngã đường các bản làng về đây và nhanh nhẹn trút bỏ bộ quần áo chống nắng bên ngoài. Trời ơi ! tôi không thể ngờ được trước mắt tôi là những tiên nữ trẻ măng, hồn nhiên với những bộ váy áo muôn màu hoa văn được cắt khéo léo từ những tấm thổ cẩm dệt Zèng bó gọn thon thả những tấm lưng eo thắt.
Tất cả đều vai trần tóc búi gọn và cổ đeo những vòng cườm xinh xắn . Đó những những diễn viên múa nghiệp dư ở các đội văn nghệ về đây tụ hội. Họ kéo tôi vào cùng chụp chung những chiếc ảnh bên chiếc trực thăng của bảo tàng. Đêm giao lưu có đốt lửa trại chưa đến, nhưng vũ điệu A Lưới của họ đã bắt đầu hồ hởi, chân tình, mộc mạc, đắm say. Đó là tất cả những sắc thái gam màu, âm điệu tôi đã cảm nhận được ngay giữa ngây ngất núi rừng.