Không chỉ được tôn là “tứ hổ Tràng An”, ông còn là người dựng mốc biên giới bên sông Đỗ Chú, xác lập sự ổn định gần 300 năm nay.
Nguyễn Công Thái (1684 - 1758) người làng Kim Lũ (tức làng Lủ) thuộc phường Đại Kim (Hoàng Mai - Hà Nội). Theo tư liệu chính sử, ông là thầy dạy của chúa Trịnh Sâm, và có công đưa Trịnh Doanh lên ngôi chúa.
Không chỉ trải nhiều chức vị quan trọng, ông còn là ngoại giao tài ba trong cuộc giành lại phần đất từng bị nhà Thanh chiếm giữ.
Tứ trạng nguyên đồng
Theo gia phả dòng họ Nguyễn, Nguyễn Công Thái thuộc đời thứ 6 của dòng họ tại làng Lủ. Ông có hiệu là Thuần Chính, thụy Trung Mẫn Công, húy là Phấn, tên thường gọi là Nguyễn Công Thể. Thế hệ họ Nguyễn sau Nguyễn Công Thái đến triều nhà Nguyễn nổi lên nhiều danh sĩ tên tuổi nổi bật như: Nguyễn Văn Siêu (Thần Siêu), Nguyễn Khắc Hiếu (thi sĩ Tản Đà)…
Tấm bia “Quan Thượng thư Tể tướng” do hậu duệ Nguyễn Công Thái là Nguyễn Công Tú - Hàn lâm viện thị độc soạn để tại từ đường có nội dung: Nguyễn Công Thái dáng vẻ uy nghi, mặt đầy đặn, hai gò má cao, tai trắng. Nguyễn Công Thái nổi tiếng thông minh, học giỏi, có chí lớn, trầm tĩnh, cứng rắn, mưu lược.
Năm 1703, ông dự kỳ thi khảo hạch ở trấn đỗ thứ nhất. Sau đó dự kỳ thi hương đỗ đầu (Giải nguyên) đến kỳ thi hội năm Ất Mùi (1715) lại đỗ đầu (Hội nguyên), thi Đông các ông đỗ tam danh ngang với Thám hoa. Về sau, khi đã hiển đạt, ông được triều đình nhà Lê tặng bức đại tự “Tứ trạng nguyên đồng” (ban cho như Trạng nguyên).
Ngay sau khi đỗ đạt, Nguyễn Công Thái được triều đình Lê trung hưng giao chức Giám sát Ngự sử Hải Dương (1715). Sau đó được giao làm quan xứ Thanh Hoa (Thanh Hóa), rồi Đốc đồng Nghệ An, Hiến sát Kinh Bắc, Tham chính bát tri lại phiên, Binh phiên, thăng Thụ tự khanh tế tửu.
Năm 1740, khi đang làm Tả thị lang bộ Lại, Nguyễn Công Thái mưu sự cùng Nguyễn Quý Cảnh lật đổ Trịnh Giang dựng Trịnh Doanh lên ngôi chúa.
Các tư liệu lịch sử ghi chép rằng, chúa Trịnh Giang làm việc đại nghịch giết vua Lê Duy Phường, lại hãm hại nhiều đại thần, chơi bời bỏ chính sự. Suốt ngày sa vào tửu sắc, trọng dụng nhóm hoạn quan Hoàng Công Phụ lũng đoạn triều chính, khiến nhân dân thống khổ, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi.
Đòi đất, dựng mốc biên giới
Việc đổi ngôi thực hiện thành công năm 1740, sau khi Trịnh Doanh lên ngôi chúa, triều đình tạm yên. Khi luận thưởng công trạng, Nguyễn Công Thái được phong Suy trung dực vận công thần, cùng Nguyễn Quý Cảnh vào phủ làm Tham tụng (Tể tướng), sau lại làm Thượng thư bộ Lễ.
Có công lớn với chúa Trịnh Doanh nên Nguyễn Công Thái được tin cẩn giao dạy Thế tử Trịnh Sâm học. Vì vậy, sau khi được nối ngôi chúa, Trịnh Sâm càng thêm kính trọng thầy.
Tấm bia “Thượng thư tể tướng từ đường bi ký” tại từ đường Nguyễn Công Thái cho biết: Năm Mậu Thân (Bảo Thái thứ 7 – 1726), Nguyễn Công Thái vâng chỉ đến Tuyên Quang để giải quyết việc nhà Thanh xâm lấn biên giới, dựng bia làm cõi.
Tuy bia chỉ ghi ngắn gọn như vậy nhưng sự kiện này được sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú ghi rõ về vùng đất bị nhà Thanh xâm phạm: “Các đèo ải ở Vị Xuyên, Tụ Long… là những nơi chứa góp của cải, nguồn lợi của các đời đều do đó mà sinh ra”.
Theo GS Sử học Lê Văn Lan thì sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc sử quán triều Nguyễn viết: “Núi Tụ Long ở địa phận xa Tụ Long, châu Vị Xuyên. Khoáng sản trong núi có đá nam châm và đồng đỏ, lại có chỗ lẫn cả ngân sa, nên cũng gọi là Xưởng Bạc”.
Sách này còn cho biết: “Trước đây, nước ta cùng nhà Thanh lập mốc giới hai bên ở núi “Xưởng Chì”. Còn núi Tụ Long của nước ta vẫn bị mất về nhà Thanh. Thổ ti nhà Thanh đặt quan ải để đánh thuế. Đất ở biên giới nước ta bị mất 40 dặm”.
Triều đình nhà Lê nhiều lần gửi thư phân biện lên triều đình nhà Thanh. Nhưng Ngạc Nhĩ Thái – Tổng đốc Vân Quý nhà Thanh theo trình bẩm của cấp dưới đã tâu về triều đình là quân nhà Lê xâm lấn phủ Khai Hóa, xin phát binh mã các tỉnh phòng bị biên giới.
Tuy nhiên, thư nhà Lê đến trước sớ tâu của Ngạc Nhĩ Thái nên triều đình nhà Thanh lệnh cho Đô Ngự sử là Hàng Dịch Lộc, Nội các học sĩ Nhậm Lan Chi đến tuyên dụ cho lấy sông Đỗ Chú và núi Bạch Mã làm biên giới.
Triều đình Lê – Trịnh đã cử sứ bộ Nguyễn Công Thái cùng quan Thị lang bộ Binh Nguyễn Huy Nhuận được cử lên miền địa đầu phía Bắc, hội khám cùng các quan chức nhà Thanh, giải quyết việc phân định biên giới.
Tuy triều đình nhà Thanh đã nhất trí, nhưng khi thực hiện thì họ lại chỉ ra một dòng sông khác ở mạn dưới mỏ Tụ Long, cho rằng đó là sông Đỗ Chú. Mục đích của các viên quan là chiếm thêm 4 xã và mỏ đồng.
Biết hành động này là gian xảo, Nguyễn Công Thái bèn lặn lội thực địa chỉ ra sông Đỗ Chú và tranh biện lý lẽ với quan lại nhà Thanh. Cuối cùng, các viên quan Thanh triều buộc phải thỏa thuận dựng bia đá ở hai bên bờ sông Đỗ Chú làm mốc giới hai nước.
Nguyễn Công Thái cho dựng tấm bia chủ quyền bên mạn Nam sông Đỗ Chú với lời hào hùng: “Nước An Nam, trấn Tuyên Quang, châu Vị Xuyên, lấy sông Đỗ Chú làm căn cứ. Ngày 18 tháng 9 năm Ung Chính thứ 6 (1728) chúng ta là: Nguyễn Huy Nhuận - Tả Thị lang bộ Binh và Nguyễn Công Thái - Tế tửu Quốc Tử Giám, được triều đình ủy sai, vâng theo chỉ dụ, lập bia đá này”.
Từ đó, biên giới hai nước được xác lập ổn định, vững chãi gần 300 năm nay trên biên giới phía Bắc của đất nước.
Văn võ toàn tài
Văn bia “Quan Thượng thư Tể tướng” có ghi: “Trong hơn 40 năm làm quan tại triều, Nguyễn Công Thái có bản lĩnh độc lập không dựa dẫm vào ai, thẳng một mực giữ đúng ý không a dua. Tuy phẩm tước chỉ đạm bạc nhưng vẫn vui vẻ cần cù làm việc, bên trong khoan hòa mà bên ngoài phép tắc, có tài kinh luân gánh vác.
Trải qua 4 triều chúa, ông đều được trọng dụng, làm việc không mệt mỏi, công lao không phải nhỏ, nhưng chỉ khiêm tốn coi đó là chức phận. Ngay cả khi được hưởng ân sủng của vua, ông chưa từng kể công, chỉ một lòng trung thành trong sáng, đạo đức độ lượng, đạo của người làm tướng rõ rệt thay”.
Nội dung văn bia tại từ đường Nguyễn Công Thái còn cho biết, ở đâu ông cũng hoàn thành chức phận, lập nhiều chính tích được dân mến chúa yêu. Không chỉ làm việc quan văn, ông còn nhiều lần hộ giá và trực tiếp cầm quân dẹp loạn, văn võ toàn tài.
Lập nhiều công trạng, Nguyễn Công Thái cũng phải chịu nhiều ghen ghét, điều tiếng gièm pha. Vì vậy, ông từng bị đưa ra trấn thủ Sơn Nam. Sau được thăng hàm Thiếu bảo và về hưu. Nhưng chúa Trịnh sau đó lại mời ông ra làm quốc lão. Do không hợp với nịnh thần bên cạnh Trịnh Doanh nên ông lại xin rút lui về trí sĩ tại quê nhà Kim Lũ.
Theo một số tư liệu ghi chép, thì ông được ban đất lộc điền 100 mẫu, song ông cho con cháu và dân làng sử dụng. Sau này, chúa Trịnh Sâm muốn làm tặng thầy một ngôi nhà ba gian bằng gỗ tốt nhưng mấy lần ngỏ ý đều bị từ chối. Chúa Trịnh Sâm bèn nghĩ, thầy còn chưa có từ đường để thờ tổ tiên nên đề nghị cho dựng ba gian nhà tốt.
Ngôi từ đường “Nguyễn tướng công từ” gồm 3 gian, 2 dĩ đều được làm bằng gỗ lim. Nguyên liệu chính làm vách là rơm ngâm vôi và đất, cát. Về hưu ít lâu thì Nguyễn Công Thái qua đời (1758) thọ 75 tuổi.
Từ năm 1789, ngôi nhà được dòng họ Nguyễn lập làm từ đường. Cùng với hai bức hoành phi, trong ngôi nhà cổ còn một tấm bia đá do người con thứ 7 là Nguyễn Huy Tú - Đốc đồng Bình chương sự Lạng Sơn tạc vào đời vua Lê Chiêu Thống năm thứ 3 (1789).
Năm 2010, Hà Nội đã tôn vinh danh nhân Nguyễn Công Thái và đặt tên cho một con phố thuộc quận Hoàng Mai để ghi nhớ những cống hiến của vị đại thần triều Lê đối với đất nước.