Tự chủ đại học: Thay đổi tư duy, nhận thức và hành động

GD&TĐ - Theo Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn, mục tiêu của tự chủ đại học là phát huy nội lực, sức mạnh của hệ thống, của các đơn vị, giảng viên trong trường. Qua đó, thu hút thêm nguồn lực và nâng cao chất lượng đào tạo.

Giờ thực hành của sinh viên Trường ĐH Công nghiệp thực phẩm TP Hồ Chí Minh. Ảnh: NTCC
Giờ thực hành của sinh viên Trường ĐH Công nghiệp thực phẩm TP Hồ Chí Minh. Ảnh: NTCC

Những chuyển biến quan trọng

- Theo Thứ trưởng, tự chủ đại học đã mang lại những thành công nào?

- Theo tôi, thành công lớn nhất của tự chủ đại học là đã làm thay đổi tư duy, nhận thức và hành động, nhất là trong quản trị đại học. Từ tư duy, cách thức quản lý của Nhà nước cho đến quản lý, quản trị nhà trường. Tự chủ đại học đã phát huy được các nguồn lực và làm thay đổi cách nghĩ, cách cung cấp dịch vụ giáo dục tới người học. Đó là những chuyển biến rất quan trọng.

Trên cơ sở đó, các trường được thụ hưởng nguồn lực và có năng lực cạnh tranh tốt hơn trong hệ thống. Song, điều quan trọng nhất là cung cấp chất lượng đào tạo tốt hơn cho người học. Cùng với đó là cung cấp các sản phẩm, kết quả nghiên cứu phục vụ cộng đồng. Minh chứng rõ nét là, số lượng bài báo quốc tế trong danh mục Web of Science (WoS) tăng 3,5 lần sau 4 năm; số bài báo trong danh mục SCOPUS của các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) tăng thêm hơn 4 lần. Sản phẩm của các đề tài, dự án, chương trình khoa học công nghệ cấp Bộ của các đơn vị trực thuộc Bộ GD&ĐT tăng đáng kể trong các năm qua, trung bình 25%/năm.

Ngoài ra, qua khảo sát cho thấy, từ thời điểm được giao thí điểm tự chủ, các trường đã từng bước hình thành cơ cấu nhân lực phù hợp; có chính sách cạnh tranh, thu hút giảng viên giỏi chuyên môn và khả năng nghiên cứu khoa học. Tỷ lệ giảng viên trình độ tiến sĩ ngày một tăng, từ 25% năm 2018 lên trên 31% năm 2021.

Có thể nói, tự chủ đại học tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh; đồng thời thúc đẩy các trường đầu tư vào điều kiện bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo để cạnh tranh trong tuyển sinh, thu hút sinh viên giỏi; hướng tới thực chất và phát triển bền vững.

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn tại Hội nghị tự chủ đại học năm 2022. Ảnh: Thế Đại

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn tại Hội nghị tự chủ đại học năm 2022. Ảnh: Thế Đại

- Tự chủ đại học đã có những tác dụng gì, thưa ông?

- Chúng tôi đã khảo sát các trường, đánh giá của Hiệu trưởng, Bí thư, Chủ tịch Hội đồng trường. Kết quả cho thấy, tự chủ đại học đã có tác động mạnh mẽ đến khoa học công nghệ, tổ chức và phát triển đội ngũ nhân lực. Nhưng tác động mạnh nhất là tới tuyển sinh, đào tạo. Nói cách khác, tự chủ đại học có tác động mạnh nhất đến chuyên môn học thuật.

Theo đó, các trường chủ động điều chỉnh chương trình đào tạo; chỉ tiêu tuyển sinh để đáp ứng nhu cầu của người học. Đồng thời, cập nhật, điều chỉnh các ngành mới đáp ứng nhu cầu xã hội, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Chương trình chuyển đổi số quốc gia.

Đối với tuyển sinh đại học chính quy, chỉ tiêu hằng năm tăng nhẹ; tỷ lệ % đạt được tuyển sinh trong 3 năm tăng từ 83,46% lên 97,80%. Tuy nhiên, tỷ lệ tuyển sinh trình độ tiến sĩ có phần giảm do yêu cầu đầu vào và chuẩn đầu ra cao hơn tại Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT.

Có thể thấy, tự chủ đại học tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh; thúc đẩy các trường đầu tư vào các điều kiện bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo (cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên, hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong, tỷ lệ sinh viên có việc làm…) để cạnh tranh trong tuyển sinh, thu hút được sinh viên giỏi; thúc đẩy các trường ngày càng đi vào thực chất hơn với chất lượng đào tạo, phát triển bền vững.

Ngoài ra, số liệu thống kê cho thấy, quy mô tuyển sinh hệ đại trà có xu hướng giảm. Thay vào đó là tăng quy mô tuyển sinh các chương trình đào tạo tiên tiến, đào tạo chất lượng cao, liên kết đào tạo với nước ngoài và đào tạo bằng tiếng Anh.

Sinh viên Trường ĐH Bách khoa Hà Nội. Ảnh: NTCC

Sinh viên Trường ĐH Bách khoa Hà Nội. Ảnh: NTCC

- Có ý kiến cho rằng, tự chủ đại học là các trường phải tự túc về tài chính; Nhà nước cắt ngân sách. Thứ trưởng nhìn nhận vấn này như thế nào?

- Quan niệm tự chủ đại học chỉ là tự chủ về tài chính và tự chủ tài chính là các trường phải tự túc và Nhà nước sẽ cắt ngân sách. Nhận thức đó trong thời gian qua vẫn xuất hiện ở nhiều nơi nhưng điều đó không đúng. Mục tiêu của tự chủ đại học là phát huy được nội lực, sức mạnh của hệ thống. Tự chủ cũng nhằm phát huy sức mạnh của các đơn vị, cùng đội ngũ giảng viên trong trường. Mục đích cuối cùng là thu hút thêm nguồn lực và nâng cao chất lượng đào tạo.

Khi các cơ sở GDĐH sử dụng nguồn lực (dù của xã hội hay Nhà nước) hiệu quả và tốt hơn thì đó chính là nơi mà Nhà nước phải đầu tư nhiều hơn. Khác với tư duy: Nơi nào làm tốt thì không phải cấp ngân sách, nơi nào cần hỗ trợ thì mới cấp. Câu chuyện ở đây không phải là cơ chế “xin, cho” hay hỗ trợ ngân sách, mà chúng ta cần coi các cơ sở GDĐH là nơi tốt nhất, cần nhất để Nhà nước đầu tư. Cho nên, quan niệm khi các trường có khả năng bảo đảm được một phần kinh phí hay toàn bộ chi thường xuyên thì Nhà nước không cấp hoặc cắt giảm ngân sách là không đúng.

Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số 34) quy định rất rõ, Nhà nước chỉ thay đổi cơ chế phân bổ ngân sách, không phải giảm vai trò trong việc cấp ngân sách và đầu tư vào các trường đại học. Tiếc rằng, cơ chế và chính sách đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo, chuyển sang cơ chế hỗ trợ trực tiếp cho người học đến nay thực hiện còn yếu.

Trừ lĩnh vực đào tạo giáo viên đã có Nghị định số 116/2020/NĐ-CP của Chính phủ. Nhưng với nhiều ngành đào tạo khác, trong đó có những ngành đào tạo trình độ sau đại học, nhất là đào tạo tiến sĩ còn rất ít (trừ Đề án 89). Có lẽ, đây cũng là vấn đề vướng mắc lớn nhất trong việc tự chủ đại học.

Sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam. Ảnh Internet

Sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam. Ảnh Internet

Gỡ khó cho các trường

- Vậy, ngoài vướng mắc trên, các trường còn gặp khó khăn nào?

- Hiện nay, tự chủ đại học cũng có một số vướng mắc: Thứ nhất, việc triển khai các điều kiện tự chủ ở một số cơ sở GDĐH còn gặp khó khăn, thậm chí là chậm trễ như thành lập hội đồng trường, kiện toàn bộ máy lãnh đạo quản lý, tiến hành kiểm định cơ sở GDĐH, xây dựng hệ thống văn bản, quy chế nội bộ theo quy định của Luật số 34. Những chậm trễ, vướng mắc này một phần nằm ở nhận thức và năng lực quản trị đại học. Ngoài ra, còn do sự quan tâm của các cơ quan quản lý trực tiếp trong việc chỉ đạo cơ sở GDĐH thực hiện đúng quy định.

Vướng mắc thứ hai là, các cơ sở GDĐH còn thiếu cơ sở vật chất và năng lực tài chính còn yếu. Thời gian gần đây, số lượng tuyển sinh giảm đối với những ngành đào tạo đặc thù, hoặc đào tạo trình độ cao như tiến sĩ. Điều này dẫn tới nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao ở những lĩnh vực then chốt mà đất nước cần trong thời gian tới; nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế và giáo dục, đào tạo như hiện nay. Trong khi đó, cơ cấu về tài chính của các trường phụ thuộc rất nhiều vào nguồn thu học phí mà ít có được từ các nguồn khai thác khác như hoạt động công nghệ hay dịch vụ...

Ngoài ra, ngân sách Nhà nước cấp cho lĩnh vực GDĐH thấp hơn nhiều lần so với trung bình của các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, kinh phí chi thường xuyên bị cắt giảm hằng năm để các trường phải đảm bảo kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư. Điều này càng khó khăn trong việc phát triển các chương trình đào tạo chất lượng cao, thúc đẩy nghiên cứu để phục vụ cộng đồng.

Thực tế, với những trường có kinh nghiệm tự chủ đang vận hành rất tốt. Song đây chính là nơi mà Nhà nước cần đầu tư. Bởi đầu tư cho GDĐH mang lại lợi ích rất lớn, không phải chỉ trước mắt mà còn lâu dài, trên hết là sự phát triển bền vững của đất nước.

- Bộ GD&ĐT có đề xuất gì để tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy tự chủ đại học?

- Bộ GD&ĐT đề xuất, Chính phủ chỉ đạo để các bộ, ngành, đặc biệt với Bộ Tài chính - làm sao có lộ trình từng bước nâng tỷ lệ chi ngân sách cho GDĐH. Thống kê cho thấy, chi đầu tư cho GDĐH tính trên GDP chiếm ít nhất 1% GDP ở nhiều quốc gia. Với các nước trong khu vực Đông Nam Á, tỷ trọng chi cho lĩnh vực này cũng gấp nhiều lần so với Việt Nam. Chúng tôi đề xuất, cần có lộ trình tăng trong một vài năm tới, ít nhất bằng với mức trung bình các nước trong khu vực.

Bên cạnh đó, cần đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết của Đảng cũng như Luật số 34. Đổi mới cơ chế phân bổ cơ chế tài chính, chứ không phải cắt giảm ngân sách. Khi đổi mới cơ chế tài chính, việc đầu tư sẽ tập trung vào những nơi làm hiệu quả nhất. Chúng ta phân bổ theo cơ chế cạnh tranh, theo năng lực và kết quả hoạt động.

- Xin cảm ơn Thứ trưởng!

Trong 5 năm tới (giai đoạn 2022 - 2026), định hướng trọng tâm là đẩy mạnh nhận thức, quan điểm về tự chủ đại học theo đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn của Đảng và Nhà nước; trong đó tập trung vào một số nội dung như: Tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước, nâng cao năng lực quản trị nhà trường, tăng cường công tác quản lý chất lượng, tăng cường đầu tư, phát triển các nguồn lực.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ