(GD&TĐ) - Người khẩu đội trưởng cối 82 ly, Nguyễn Hữu Chấp được vinh dự nhận mệnh lệnh vào lúc 19 giờ ngày 13/3/1954 nã những phát đại bác đầu tiên trong chiến dịch mở màn trận đánh lịch sử Điện Biên Phủ. Giờ đây ông đã ở vào cái tuổi 80 nhưng khi ngồi tiếp chuyện với chúng tôi, trong ánh mắt ông vẫn ánh lên niềm vui về quá khứ hào hùng, oanh liệt.
Chúng tôi đến nhà ông Nguyễn Hữu Chấp tổ dân phố 20, phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ, giờ đã vào tuổi “bát thập” nhưng ông vẫn nhanh nhẹn, hoạt bát giọng nói hào sảng, tác phong người lính thể hiện rõ khi ông ngồi tiếp chuyện với chúng tôi.
Ông kể cho chúng tôi nghe rành rọt về những năm tháng chinh chiến đã qua của cuộc đời mình, những ngày tháng oai hùng của dân tộc mà ông vinh dự được có mặt trong đoàn quân tiên phong cùng với đồng đội làm lên lịch sử. Niềm tự hào xen lẫn nỗi buồn trong câu chuyện của ông khi kể về những trận đánh, và những đồng đội thân yêu đã vĩnh viễn nằm lại nơi chảo lửa Điện Biên Phủ giờ đây chính ngay trên mảnh đất nhà ông hiện đang ở, ông nói với chúng tôi: “hàng ngày ông vẫn như thấy hơi thở của những đồng đội bên ông cách đây 57 năm, không thể nào xóa nhòa và niềm mong ước của ông được ở bên những người đồng đội”. Chúng tôi tin dù đó chỉ là điều tâm linh với một con người như ông trong những ngày tháng cận kề với cái chết và sự sống mong manh thì đó chẳng ngoa chút nào.
Ông Nguyễn Hữu Chấp năm 1954 |
Ông sinh năm 1931, ở miền núi trung du Phú Thọ từ bé đã phải đi ở đợ làm thuê cho địa chủ chịu đựng biết bao bất công, nên ông đã nung nấu ý chí lớn lên làm điều gì đó để xóa bỏ được ấm ức từ khi còn nhỏ. Năm 1949 ông xung phong vào bộ đội được vào bộ đội là cả quá trình gian nan, vất vả vì ông vừa nhỏ, lại thiếu cân nhưng với quyết tâm vào bằng được bộ đội cầm súng đánh giặc, chống lại những áp bức bất công đã thôi thúc và rồi ông cũng được nhận vào đại đội 290, tiểu đoàn 166, trung đoàn 209, đại đoàn 312.
Những năm tháng là người lính của đại đoàn 312 trước khi hành quân lên tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, ông đã tham gia 7 chiến dịch với 28 trận đánh lớn nhỏ chính điều ấy đã cho ông trưởng thành, dày dạn có kinh nghiệm trong trận đánh lịch sử cuối cùng làm lên chiến thắng vang dội chấn động địa cầu.
Trên đường tiến quân và rồi giải phóng Điện Biên ông kể lại thật nhiều kỷ niệm niềm vui háo hức của mình và những người đồng đội chỉ mong sao được thật nhanh được đến sào huyệt cuối cùng của bọn thực dân Pháp và muốn thử sức mình với cái pháo đài bất khả xâm phạm mà bọn chúng huênh hoang tuyên bố, rêu rao về sức mạnh với thứ vũ khí tối tân hiện đại. Ngang nhiên cho rằng: động đến cứ điểm Điện Biên Phủ của chúng sẽ là cối xay thịt, nghiền nát tất cả.
Trong trận đánh trước chiến dịch Điện Biên ông và những người đồng đội của mình trong trung đoàn 209, đã có bài học xương máu trong những trận đánh trên đường tiến công đó là trận đánh năm 1952 vào sân bay Nà Sản, tỉnh Sơn La trong thế chẻ tre trung đoàn ông truy kích quân địch chỉ gặp được sự kháng cự yếu ớt. Khi địch co cụm tập trung tại sân bay Nà Sản tập trung hỏa lực phục kích trung đoàn do không có sự phòng bị đang trên thế thắng có phần chủ quan khinh địch đã để lại tổn thất nặng nề với 2.000 đồng đội trong trung đoàn của ông chỉ còn 200 người sống sót. Tiểu đội đại liên do ông làm tiểu đội trưởng hy sinh 12 người chính ông cũng bị thương bởi quả đạn pháo cối 60 của địch đó là bài học ông và những người đồng đội còn sống sót trong trận đánh hôm ấy không thể nào quên.
Khi chúng tôi hỏi ông về ngày tháng tham gia vào chiến dịch Điện Biên Phủ, ông trầm lặng suy tư, như mạch nguồn ký ức đang trào về có lẽ nó đẹp nhất, bi tráng và hào hùng trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Đặt chân lên mảnh đất Điện Biên ông được giao nhiệm vụ Khẩu đội trưởng cối 82 nhiệm vụ quan trọng trong trận đánh mở màn chiến dịch. Lệnh của cấp trên yêu cầu phải thật bất ngờ làm câm họng, vô hiệu hóa kẻ địch, tiêu diệt hoàn toàn đồn bốt tại cứ điểm Him Lam.
Để có thể hoàn thành trọng trách nặng nề ấy, lấy khí thế yêu cầu của chỉ huy chiến dịch đánh trận đầu vang dội, chỉ thắng không thể thua, không được lơ là mất cảnh giác chủ quan để địch phát hiện. Tất cả Khẩu đội của ông viết tâm thư quyết tâm đánh trận đầu và chính đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến tận nơi động viên giao nhiệm vụ, còn về phía địch thì thường xuyên dải truyền đơn nhằm làm nhụt ý chí chiến đấu của bộ đội ta, khếch trương thanh thế, dọa nạt, khoe khoang...
Cựu chiến binh Nguyễn Hữu Chấp |
Để có thể tạo bất ngờ, lợi thế Khẩu đội của ông được lệnh ngày đêm đào đường hầm ngầm dài 5 km từ Tà Lèng vào đến gần đồi Him Lam rõng rã nửa tháng trời, ông cùng với đồng đội vật lộn với bùn đất, nhích dần từng mét hào ai cũng mong thật nhanh đến được đích để nã đạn vào kẻ thù một phần vì suốt ngày đêm phải vùi mình trong bùn đất ẩm ướt thiếu khí thở, ngột ngạt ngày nắng hầm hập dội xuống như trong chảo rang.
Ông và đồng đội động viên nhau, chia nhau từ bát nước miếng cơm trong ai cũng có niềm mong mỏi lớn nhất là một ngày được chui ra khỏi mặt đất được nhìn thấy bầu trời, được chiến đấu với quân thù dù có cam go, khốc liệt thì vẫn sung sướng gấp trăm ngàn lần nằm dưới lòng đất. Và rồi niềm vui của ông và những đồng đội của mình vỡ òa đến sáng ngày 13/3/1954 đường hào đã hoàn thành Khẩu đội cối 82 ly của ông nhận được mệnh lệnh đợi đến tối sẽ khai hỏa.
Ông và những người đồng đội mình có lẽ không bao giờ quên được những giây phút chờ đợi hồi hộp sung sướng chỉ mong sao cho trời nhanh tối để được bật lên khỏi lòng đất, nã những phát đạn đầu tiên vào kẻ thù sức mạnh mà chúng rêu rao là bất khả xâm phạm. Và rồi cái khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông và đồng đội đã đến, đúng 19 giờ ngày 13/3/1954 những loạt đại bác đồng loạt nã vào lô cốt, hầm...
Khẩu đội của ông có nhiệm vụ bắn thẳng vào Sở chỉ huy cứ điểm Him Lam một đêm chiến đấu ròng rã, khẩu cối 82 của khẩu đội ông bị đạn của địch bắn mẻ lòng, 2 đồng đội hy sinh, 5 người bị thương nặng nhưng với ý chí quyết tâm lòng quả cảm, để phát huy hiệu quả ông đã cho điều chỉnh lại máy ngắm và đến 7 giờ sáng ngày 14/3/1954 quân địch ở đồi Him Lam hoàn toàn bại trận ông cùng đồng đội làm chủ chiếm lĩnh được hoàn toàn trận địa.
Trận thắng ấy đã cổ vũ rất lớn tinh thần chiến đấu của bộ đội ta trên khắp các mặt trận và khẩu đội của ông lại tiếp tục nhận nhiệm vụ mới cùng với các đơn vị khác đánh chiếm đồi D1, E1, E2 những trận đánh giằng co hàng tháng trời giữa ta và địch giành nhau từng mét đất, ác liệt như trên đồi E1, E2 ông và đồng đội của mình trụ lại hàng tháng trời không tắm giặt... nhưng với ý chí kiên cường ông đã cùng đồng đội làm nên chiến thắng vang dội chiến thắng đi vào lịch sử chống ngoại xâm vĩ đại của dân tộc.
Giờ sau 57 năm lịch sử hào hùng của dân tộc đã qua trong ông vẫn còn canh cánh nỗi lòng với đồng đội của mình đã nằm lại. Ông đã làm tròn trách nhiệm với rất nhiều đồng đội cùng gia đình họ đưa về quê hương an nghỉ nhưng vẫn còn nhiều người vẫn chưa tìm thấy hài cốt, ông ngậm ngùi nói: “Những kỷ vật quan trọng trong những năm tháng đó ông vẫn giữ nguyên vẹn như tấm bản đồ Điện Biên Phủ thời Pháp để với mục đích xác định nơi những người đồng đội thân yêu của ông đã nằm lại” và rồi cũng như một duyên nợ sau năm 1954 ông đã gắn bó luôn với cái nơi mà ông nhận lệnh khai hỏa đầu tiên trong chiến dịch Điện Biên.
Kiên Cường