Cuộc đời của danh nho trẻ tuổi tuy ngắn ngủi, nhưng để lại những dấu ấn khó phai cho hậu thế.
Kỳ 1: Trạng nguyên duy nhất không được ban áo mũ
Lịch sử thi tuyển hiền tài nước ta đã bắt đầu từ thời nhà Lý. Tuy nhiên, danh hiệu Trạng nguyên chỉ chính thức xuất hiện từ khoa thi năm 1247, thời vua Trần Thái Tông. Trong khoa thi này, nét đặc biệt là cả 3 sĩ tử đỗ đầu đều là những người trẻ tuổi.
Trạng nguyên khai quốc là Nguyễn Hiền mới có 13 tuổi, Bảng nhãn Lê Văn Hưu 18 tuổi và Thám hoa Đặng Ma La 14 tuổi.
Yên ả làng Trạng
Ông Nguyễn Minh Nguyên – Trưởng tộc chi họ Nguyễn ở Dương A cho biết: Nguyễn Hiền, người làng Dương Miện, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường; nay là thôn Dương A, xã Nam Thắng (Nam Trực – Nam Định). Mảnh đất làng Dương Miện từ xưa tới nay đều rất nổi danh lẫn tự hào vì sản sinh ra vị Trạng nguyên trẻ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng nước Nam.
Hiện nay tại quê Trạng nguyên, ngôi đền thờ tuy không rộng lớn nhưng đậm đặc những dấu tích xưa in lại. Ông Nguyên cho biết, đền thờ được dựng trên chính nền ngôi nhà tranh khi xưa Nguyễn Hiền ở cùng với người mẹ trong quãng thời gian thơ ấu.
Ngoài Quốc lộ 21A có bảng chỉ dẫn chi tiết lối đến đền thờ Trạng nguyên. Từ khi có biển chỉ dẫn, nhiều đoàn học sinh các trường thuộc bốn tỉnh Hà – Nam – Ninh – Thái Bình thường xuyên ghé đến tham quan, thắp hương, tưởng nhớ vị “Trạng non”.
Một vùng đất phải nói rất yên ả, thậm chí khá trầm buồn bởi nơi thôn dã không còn nhiều người ở lại làm ăn mà đi lập nghiệp ở các thành phố lớn. Cái không khí tĩnh mịch ấy, gợi cho người lạ những câu hỏi 800 năm trước về việc học tập của Nguyễn Hiền.
Và bao nhiêu sự kiện có thực, về một con người có thực mới dần vỡ vạc ra qua câu chuyện của người thôn quê. Giữa cái Tết không mấy ồn ào chốn thờ tự Trạng nguyên, ông Phạm Xuân Hinh, giữ chức Phó ban thường trực Ban Quản lý di tích văn hóa lịch sử Nguyễn Hiền kể những câu chuyện “người làng mình” cứ lưu loát như thể tự bản thân chứng kiến vậy.
Mà không phải riêng ông Hinh mới có cái tự hào “người làng mình”, ngay cả những đứa trẻ chăn trâu ở Dương A cũng tự hào lắm. Lúc này, ông “Trạng non” Nguyễn Hiền kia không chỉ là “người làng mình”, mà còn như người cùng thời, cùng lứa. Thế mới biết, sức sống của hiền nhân chẳng kém gì thánh nhân cả.
So với nhiều đền thờ danh nhân, nơi thờ tự Trạng nguyên Nguyễn Hiền khá khiêm tốn cả về quy mô lẫn kiến trúc. Đặc biệt, theo lời ông Hinh và các cụ già cả trong làng, đền thờ được xây dựng trên chính mảnh đất mà Nguyễn Hiền thừa tự. Cho nên, khi khách lạ đến đây như được ở chính ngôi nhà mà người xưa đã sống; ngồi lên chiếc ghế mà cảm giác như tiền nhân đã từng ngồi.
Có một điểm khác biệt ở đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền với đa số đền thờ các Trạng nguyên khác ở nước ta đó là sự tôn kính. Ở đền thờ Nguyễn Hiền, không phải không có sự tôn kính, mà sự tôn kính được mở rộng ra dường như theo lứa tuổi.
Vì là “Trạng non” nên tính chất “mở rộng cửa” nơi đền thờ này làm người khác liên tưởng đến một khu văn hoá. Người già và đặc biệt trẻ em tụ tập rất đông trong sân đền thờ. Người già thì uống trà, trẻ em thì đá bóng, đá cầu và chơi những trò rất thôn dã. Điều ấy dễ liên tưởng đến một thời Trạng nguyên Nguyễn Hiền cũng đã từng chơi.
Nhân tài “nhà giời”
Sử sách có ghi Nguyễn Hiền mồ côi cha từ nhỏ, người mẹ đã cho ông theo học sư cụ chùa Hà Dương ở làng Dương A. Tương truyền, lúc đầu vào học sư mới viết được 10 trang giấy, Hiền liền đọc ngay được như người đã từng đi học rồi, sư cụ lấy làm lạ. Tuy nhiên, theo ông Hinh thì chi tiết đó không chính xác và thiếu thông tin.
“Nguyễn Hiền có cha tên là Nguyễn Bá Luân, mẹ là Nguyễn Nhụ Nhân. Ông bà có hai người con, một người mất sớm. Khi cha của Nguyễn Hiền qua đời, ông ở với mẹ, và thực chất là không học thầy nào. Vì nhà ở gần chùa nên thi thoảng, Nguyễn Hiền ra chùa chơi.
Khi ấy, sư thầy chùa Cảnh Tiên (cách nhà mẹ con Nguyễn Hiền khoảng 500m) mở lớp dạy học cho con nhà quyền quý trong vùng. Nguyễn Hiền học lỏm, viết chữ ra lá chuối, tự học mà thành tài”, ông Hinh cho biết.
Còn một chi tiết khá thú vị như một điềm báo tiên tri về Trạng nguyên. Đó là một đêm, sư cụ nằm mộng thấy Phật quở rằng: “Trạng nguyên mỗi lần vào chùa thường nghịch ngợm, sao nhà ngươi không răn đe, ngăn chặn?”.
Sư tỉnh dậy, đốt đuốc khắp chùa thấy sau lưng các pho tượng đều có khắc chữ “phạt 30 roi”, riêng hai pho hộ pháp ghi “phạt 60 roi”, sư nhận ra chữ của Hiền. Biết đây là nhân tài “nhà giời” nên sư thầy chăm lo bồi đắp kiến thức cho Hiền.
Chi tiết này, theo các nhà sử học cũng chỉ là một câu giai thoại giải thích cho sự thông minh thiên bẩm của Nguyễn Hiền. Và có một sự thật rằng, năm 11 tuổi, Nguyễn Hiền đã nổi tiếng và được mệnh danh là thần đồng nước Nam.
Nhiều người hay chữ lúc bấy gờ tìm đến Hiền để ra đề chứng thực. Trong đó có người họ Đặng nổi tiếng thông kim bác cổ, đã đọc qua cả bồ sách thiên hạ nghe tiếng Hiền mới tìm đến thử tài, ra đầu đề bài phú: “Phượng hoàng sào a/Kỳ lân du úc”. Người này ra hạn cho Hiền số câu, mỗi câu phải có tiếng chỉ một loài cầm thú.
Nguyễn Hiền liền ứng khẩu: Phi long kiên chiếu/Mã bất xuất hà/Ý bi Hữu Hùng chi thế/Ấp vu Trác Lộc chi a. Nghĩa là: Rồng không bay lên nơi ao, hồ/Ngựa không từ sông phi ra/Đẹp thay đời có họ Hữu Hùng/Làm nhà ở nơi Trác Lộc.
Trạng nguyên không được áo mũ
Người họ Đặng hết sức thán phục Hiền và tấm tắc khen là thiên tài. Nguyễn Hiền sau đó tham dự các khoa thi Hương, thi Hội đều đứng đầu bảng. Đến khoa thi tháng 2 năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 Đinh Mùi (1247) đi thi Đình, Nguyễn Hiền dự thi với bài phú “Áp tử từ kê mẫu du hồ phú” (bài phú Vịt con từ giã mẹ gà đi chơi hồ nước). Với bài phú này, Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên ở tuổi 13, và cũng là vị Trạng nguyên đầu tiên của nước ta.
Đến ngày vào cung bệ kiến để nhận mũ áo bằng sắc, vua hỏi đến đâu, Nguyễn Hiền trả lời trôi chảy cả văn lẫn ý, vua khen ngợi và hỏi: Trạng học hà sư? (Trạng học ai?). Nguyễn Hiền trả lời: Thần sinh nhi tri hữu nghi tắc vấn tăng nhất nhị tự (Hạ thần tự học là chính, đôi chữ có hỏi nhà chùa). Nhà vua trách rằng: Trạng nguyên còn trẻ chưa biết lễ, tạm về nhà học lễ vài năm sau sẽ bổ dụng.
Trạng Hiền buồn bã vì chưa được ban áo mũ. Sau này, các nhà sử học đánh giá Nguyễn Hiền là Trạng nguyên duy nhất không được xênh xang áo gấm vinh quy bái tổ.
Một số nhà nghiên cứu lịch sử lại cho rằng, không phải Nguyễn Hiền không biết lễ mà rất biết phép tắc “có nói có, không nói không”. Có thể vua thấy Trạng nguyên quá trẻ, khó cáng đáng nổi những việc quốc gia đại sự nên mới lấy cớ “còn trẻ chưa biết lễ”. Ông lại trở về làng Dương Miện, đi chăn trâu cắt cỏ, chơi đánh cỏ gà với các bạn cùng trang lứa, sống một đời hồn nhiên thuần khiết.