(GD&TĐ) - Để cụ thể hoá những định hướng phát triển trong dự thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011 – 2020, ngày 02 tháng 03 năm 2009 Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số 316 / TTg – KTXH về việc giao cho Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành địa phương tiến hành tổng kết toàn diện chiến lược XNK thời kỳ 2001 – 2010, từ đó đề ra chính sách cho chiến lược XNK thời kỳ 2011 – 2020. Bài viết tập trung phân tích và đánh giá những nét tổng quan về những thành tích đã đạt được và những tồn tại cần khắc phục của hoạt động XNK giai đoạn 2001 – 2010, từ đó đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập siêu thời kỳ tới năm 2020 ở Việt Nam.
I. Tổng quan tình hình XNK thời kỳ 2001 – 2010 của Việt Nam
1. Những thành tựu chủ yếu:
- Xuất khẩu hàng hoá đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn 2,4 lần tốc độ tăng trưởng GDP, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập của hàng triệu lao động.
- Thời kỳ chiến lược 2001 – 2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân 17,3% /năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP trên 2,4 lần (GDP tăng bình quân 7,21 % / năm) vượt mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 (tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp 2 lần nhịp độ tăng trưởng GDP) và vượt chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá đã đề ra trong chiến lược phát triển XNK thời kỳ 2001 – 2010 (tăng trưởng bình quân 15% / năm).
- Việt Nam có vị thế ngày càng lớn trong xuất khẩu hàng hoá toàn cầu. Tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá thế giới đã tăng từ 0,24% trong năm 2001 lên 0,46% trong năm 2010. Đến nay, nhóm hàng chế biến xuất khẩu của Việt Nam đã chiếm trên 0,28 % thị phần toàn cầu, nhóm hàng thô và sơ chế chiếm trên 0,72 % (riêng điều nhân chiếm khoảng 50 %, hồ tiêu chiếm khoảng 45 %, cà phê chiếm 16 -18 %, cao su thiên nhiên 8 – 10 %, chè uống chiếm 5 – 6 %, thuỷ sản chiếm 5 – 6 %, đồ gỗ chiếm 2 – 3 %, gạo chiếm 12 – 18 %).
- Xuất khẩu hàng hoá góp phần chính yếu vào tăng trưởng GDP, trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong 10 năm qua. Trong phần tổng cầu đóng góp cho tăng trưởng GDP, trước năm 2005, mức đóng góp của xuất khẩu hàng hoá là một số âm (năm 2005 là – 58,1%), trong giai đoạn 2006 – 2008 đóng góp của xuất khẩu hàng hoá luôn là một số dương (năm 2006 là + 99,9 %, năm 2007 là + 68,7 %, năm 2008 là + 50,2 %).
- Xuất khẩu là một động lực tăng trưởng của khu vực kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế của khu vực này theo hướng CNH, HĐH và hướng về xuất khẩu. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 8,5% tỷ USD, gấp 2,1 lần năm 2001 (4,0 tỷ USD), đến năm 2010, ước đạt trên 16 tỷ USD (mục tiêu chiến lược là 9 – 10 tỷ USD).
- Xuất khẩu cũng là động lực của khu vực công nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 2001 – 2010 bình quân đạt 15 % / năm, giá trị gia tăng công nghiệp luôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng GDP khoảng 1,4 lần, đạt nhịp độ tăng trưởng 11% / năm (mục tiêu chiến lược là 10 – 10,5 % /năm). Tỷ trọng hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 71% trong năm 2000 lên 76,3 % trong năm 2007 và chiếm gần 80 % trong năm 2010 (mục tiêu chiến lược 70 – 75%).
- Trong điều kiện mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng trưởng đầu tư, xuất khẩu hàng hoá trở thành kênh dẫn quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Khoảng 55% tổng số dự án và trên 50 % tổng số vốn FDI đã được thu hút vào các ngành công nghiệp chế biến chế tạo xuất khẩu. Số doanh nghiệp FDI trực tiếp tham gia xuất khẩu tăng nhanh tới 1.854 doanh nghiệp trong năm 2010, chiếm gần 20% tổng số doanh nghiệp cả nước. Tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 45,2% trong năm 2001 lên 57,5% trong năm 2007 và khoảng 45,2% trong năm 2010.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân đầu người đã tăng từ mức 175 USD trong năm 2000 lên 750USD trong năm 2010, rút ngắn dần khoảng cách chênh lệch so với một số nước trong khu vực. Tăng trưởng xuất khẩu đã góp phần tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động, nâng cao đời sống của nhân dân. Trong điều kiện xuất khẩu dịch vụ chưa phát triển nhiều, xuất khẩu hàng hoá là thành phần đóng góp chính tạo lập và hạn chế thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của nền kinh tế.
2.Cơ cấu xuất khẩu đã có xu hướng chuyển dịch tích cực, gắn chuyển dịch cơ cấu mặt hàng với cơ cấu thị trường xuất khẩu, xây dựng được nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và gặt hái được thành công ở một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu.
Hàng dệt may vẫn đứng đầu danh sách các mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ |
- Tỷ trọng của nhóm hàng chế biến, chế tạo đã tăng được 8,3 điểm phần trăm trong 10 năm qua, từ 46,7% trong năm 2001 lên 55% trong năm 2010, tỷ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế đã giảm từ 58,3% xuống còn 45% trong thời gian tương ứng; riêng tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản đã giảm từ 29,5% xuống 22,5%. Năm 2001, có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1tỷ USD (gồm dầu thô, dệt may, giầy dép, thuỷ sản), với tổng giá trị 8,4 tỷ USD, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2010, đã có 17 mặt hàng và nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực (thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ, than đá, dầu thô, xăng dầu, sắt thép và sản phẩm thép, dệt may, giầy dép, đá quý và kim loại quý, máy vi tính và linh kiện, máy móc thiết bị, dây điện và cáp điện, phương tiện vận tải), với tổng giá trị khoảng 45 tỷ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất khẩu.
- Về cơ bản, Việt Nam đã thực hiện được thành công một số khâu đột phá chiến lược tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Trong 5 năm đầu (2001 – 2005), các ngành sản phẩm kết hợp giữa lao động giản đơn và công nghệ trung bình đã được coi trọng phát triển như: Thủ công mĩ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hoá phẩm tiêu dùng, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí, điện. Trong đó, xuất khẩu nhóm hàng thủ công mĩ nghệ (mây, tre, cói, thảm, gốm sứ, đá và kim loại quý) đã tăng trưởng bình quân 23% / năm, kim ngạch tăng từ 377 triệu USD trong năm 2000 lên 3.177 triệu USD trong năm 2009 và khoảng gần 4,0 tỷ USD trong năm 2010 xuất khẩu gỗ tăng trưởng bình quân 26% / năm; xuất khẩu sản phẩm nhựa tăng bình quân 25%/ năm, kim ngạch tăng từ 122 triệu USD trong năm 2000 lên xấp xỉ 1 tỷ USD trong năm 2009 và vượt 1,1 tỷ USD vào năm 2010.
- Cơ cấu thị trường đã có sự chuyển dịch đáng kể, về cơ bản phù hợp với định hướng điều chỉnh chiến lược thị trường, hình thành cơ cấu hợp lý. Tỷ trọng của thị trường châu Á trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 60,6% trong năm 2001 xuống 50 % trong năm 2005 và duy trì ở mức 45,5% - 48% trong giai đoạn 2006 – 2010, cơ bản phù hợp với mục tiêu đề ra là 45%. Riêng tỷ trọng của Nhật Bản đã giảm dần từ 16,7% trong năm 2001 xuống 13,3% trong năm 2005 và khoảng 10% trong năm 2010 (chiến lược là 17 – 18%); tỷ trọng của thị trường Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông giảm từ 15,8% xuống 13,9% và còn khoảng 12% trong thời gian tương ứng (chiến lược là 14 – 16%); tỷ trọng của thị trường ASEAN tương đối ổn định ở mức 17 – 18% (chiến lược là 15 – 16%); tỷ trọng của thị trường châu Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng nhanh trong giai đoạn 2001 – 2005 từ 9,3% năm 2001 lên 22 % trong năm 2005 và tương đối ổn định ở mức 22,5% - 23% trong gia đoạn 2006 – 2010.
- Thực hiện thành công khâu đột phá về thị trường xuất khẩu là tăng nhanh tỷ trọng của thị trường Hoa Kỳ từ 7,1% trong năm 2001 lên 18,2% trong năm 2005 và duy trì ở mức 19 -20% trong gian đoạn 2006 – 2010 (chiến lược là 15 – 20%).
3. Xuất khẩu hàng hoá đã từng bước gắn kết với xuất khẩu dịch vụ. Xuất khẩu tại chỗ bước đầu đã thu được ngoại tệ đáng kể, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010 tăng trưởng bình quân 10% / năm. Trong cơ cấu xuất khẩu dịch vụ năm 2008, dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động chiếm 56%, dịch vụ hàng không chiếm 19%, dịch vụ hàng hải chiếm 15%. Trong 10 năm qua, xuất khẩu dịch vụ theo phương thức tiêu dùng ở nước ngoài là chủ yếu, chiếm khoảng 56% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, xuất khẩu theo phương thức cung cấp qua biên giới chiếm khoảng 39%, xuất khẩu theo phương thức hiện diện thương mại và di chuyển thể nhân chiếm khoảng 5%. Sự phát triển dịch vụ đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu tại chỗ hàng hoá Việt Nam thông qua du lịch. Giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ tăng liên tục từ 215 triệu USD năm 2001 lên 500 triệu USD vào năm 2010.
4. Nhập khẩu hàng hoá đã coi trọng nhiều đến nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
- Phần chủ yếu trong tổng giá trị nhập khẩu hàng năm là các nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 2001 – 2005 tỷ trọng của nhóm hàng này chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 40 % GDP; trong giai đoạn 2006 – 2010 chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 60% GDP (riêng năm 2008, các chỉ số tương ứng là 74,7% và 65,1%). Tỷ trọng của nhóm hàng tiêu dùng cần kiểm soát và hạn chế nhập khẩu tuy tăng mạnh từ 22,8% trong năm 2005 lên 26,7% trong năm 2008 nhưng sau đó đã giảm dần còn khoảng 18 – 19% trong 2 năm 2009 – 2010. Năm 2008 – 2010, tỷ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế chiếm khoảng 25 – 26%, tỷ trọng nhóm hàng chế biến và tinh chế chiếm khoảng 74 – 75% trong tổng kim ngạch nhập khẩu.
- Nhập siêu tuy tăng cao trong các năm 2006 – 2008, nhưng sau đó đã được kiềm chế, tỷ lệ giá trị nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 29,1% trong năm 2008 xuống còn 22,5% trong năm 2009 và 15% trong năm 2010. Phần chủ yếu trong cơ cấu nhập siêu mang tính tích cực, tạo nền tảng cho phát triển sản xuất, tăng nguồn hàng xuất khẩu giúp giảm bớt giá trị nhập siêu trong thời gian tới.
5. Hội nhập quốc tế đã tác động tích cực, nhiều mặt đến XNK.
- Đến nay Việt Nam đã tham gia ký kết gần 12 nghìn điều ước quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 178 nước, có quan hệ thương mại với trên 220 nước và vùng lãnh thổ, đã ký kết 88 Hiệp định thương mại song phương, 7 Hiệp định thiết lập khu vực thương mại tự do (FTA) với 15 nước, 54 Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần và 61 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương. Trong giai đoạn 2001 – 2010, cùng với việc ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA), gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã tiếp tục hội nhập thương mại khu vực sâu rộng hơn trong khung khổ 6 FTA khu vực. Tỷ trọng thương mại 2 chiều giữa Việt Nam với 15 nước đối tác đã có FTA chiếm gần 60% tổng giá trị thương mại quốc tế của Việt Nam, trong đó, chiếm gần 50% kim ngạch xuất khẩu và gần 70% kim ngạch nhập khẩu. Hàng hoá của Việt Nam đã mở rộng được thị phần sang các thị trường lớn. Từ sau 2007 khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được cải thiện, dòng chẩy FDI và FII vào Việt Nam tăng mạnh, góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP.
- Hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo điều kiện quan trọng để hạn chế những tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Thị trường xuất khẩu trở nên đa dạng hơn, thúc đẩy đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường trọng điểm, xuất khẩu tăng trên hầu hết các thị trường và ít có biểu hiện chuyển hướng thương mại dưới tác động của các FTA đã tham gia. Một số mặt hàng được hưởng lợi từ các thoả thuận FTA đã có bước tăng trưởng xuất khẩu đột biến như xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc tăng 84% trong năm 2009 và tăng 70% trong năm 2010.
Những thành tựu đã đạt được chủ yếu là do những nguyên nhân sau:
-Nhờ chiến lược phát triển XNK và hội nhập quốc tế đúng đắn, kịp thời, sự chỉ đạo năng động của Chính phủ cũng như sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, của các cấp, các ngành và của toàn dân.
- Bộ Công thương đã có những biện pháp chỉ đạo, điều hành quyết liệt lĩnh vực hoạt động XNK nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập siêu.
- Nhờ những điều kiện thuận lợi của tình hình kinh tế trong nước và thế giới. Kinh tế thế giới sau kỳ suy giảm giai đoạn 1996 – 2001 đã bước vào thời kỳ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2002 – 2008 (tăng trưởng bình quân 9,7% / năm tính theo giá thực tế). Kinh tế Việt Nam sau kỳ suy giảm giai đoạn 1996 – 2000 (tăng trưởng bình quân 6,9% / năm so với giai đoạn 1991 – 1995 là 8,2% / năm).
- Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, đầu tư tăng cao cùng các điều kiện thuận lợi của môi trường kinh doanh quốc tế, nhất là khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các FTA, hàng rào bảo hộ tại các nước nhập khẩu hàng Việt Nam giảm mạnh đã có tác động tích cực đến mở rộng xuất khẩu.
Những hạn chế, yếu kém
- Quy mô xuất khẩu còn nhỏ, phát triển xuất khẩu vẫn chủ yếu theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng thấp, chi phí xuất khẩu cao, hoạt động xuất khẩu phản ứng chậm so với các biến động của thị trường thế giới, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiệu quả, hiện đại.
- Nhập khẩu hàng hoá và nhập siêu tăng cao tác động bất lợi đến các cân đối kinh tế vĩ mô, chưa hướng mạnh vào phần cốt lõi của CNH, HĐH, chưa cải thiện được nhiều tình trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành, ít tiếp cận được với công nghệ nguồn.
- Sự phát triển thị trường ngoài nước chủ yếu theo chiều rộng, chưa hướng mạnh vào phát triển theo chiều sâu, chất lượng thông tin dự báo chiến lược thị trường quốc tế còn yếu kém, chưa thực hiện thành công một số bước điều chỉnh chiến lược thị trường XNK.
- Hội nhập các FTA chưa có một chiến lược tổng thể và lộ trình thống nhất, đồng bộ với chiến lược phát triển XNK, chưa tận dụng hiệu quả cơ hội và điều kiện thuận lợi của hội nhập quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu.
- Công tác quản lý Nhà nước đối với XNK hàng hoá tuy đã có nhiều cải tiến nhưng còn một số hạn chế, thụ động, tính đồng bộ chưa cao.
II. Giải pháp quan trọng để thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập siêu thời kỳ 2011 - 2020
1. Xây dựng, củng cố các yếu tố nền tảng cho phát triển XNK nhanh và bền vững.
- Tiếp tục quá trình tự do hoá kinh tế, thương mại theo lộ trình cam kết quốc tế, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng theo quy tắc lợi thế so sánh; huy động và dùng một cách có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Tiếp tục hoàn thiện cấu trúc kinh tế thị trường, xây dựng đồng bộ các loại thị trường để nhanh chóng có một nền kinh tế thị trường đầy đủ theo cam kết với Tổ chức thương mại thế giới. Xây dựng thị trường điện, nước có tính cạnh tranh; hình thành thị trường nhân tài và tạo bước đột phá trong phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Nâng cao hiệu quả dùng nguồn lực và vai trò chủ đạo của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Mở rộng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác kinh tế toàn diện với các nước, thân thiện với các nhà đầu tư nước ngoài, tạo dựng được vị thế chiến lược của quốc gia trên trường quốc tế. Cần nỗ lực và quyết liệt cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng xuất, nhập khẩu theo hướng hạn chế khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nâng nhanh tỷ trọng nhóm hàng công nghệ cao trong cấu trúc XNK.
- Chủ động và quyết tâm cao để chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu đang chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, dùng lao động rẻ, các ngành dùng nhiều vốn, giá trị gia tăng thấp, gây ô nhiễm môi trường và tiêu hao nhiều năng lượng ... sang mô hình tăng trưởng mới.
- Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng của nhóm sản phẩm chế biến chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Ưu tiên phát triển ngành công nghiệp áp dụng công nghệ cao để tăng nguồn hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, có sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Phát triển nhập khẩu phải hướng mạnh vào tăng cường phần cốt lõi của CNH, HĐH. Cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ chính sách, cơ chế quản lý nhập khẩu để tăng tỷ trọng của nhóm máy móc, thiết bị và công nghệ trong tổng kim ngạch nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Phải quyết liệt trong việc kiểm soát và hạn chế tối đa việc nhập khẩu công nghệ thấp, công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, có hệ số tiêu hao nguyên nhiên liệu và tiêu hao năng lượng cao cho một đơn vị sản phẩm.
2. Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, gắn với bảo vệ môi trường.
- Tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, sân bay, bến cảng và quy hoạch đô thị. Đảm bảo độ mở hợp lý của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu; tăng cường đàm phán ký kết các Hiệp định thương mại tự do song phương, các Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hình thành hợp lý tỷ lệ của FDI so với GDP, của kim ngạch XNK so với GDP, tỷ lệ dư nợ nước ngoài so với GDP để đảm bảo độ mở hợp lý cho tăng trưởng nhanh và mức an toàn cần thiết cho nền kinh tế. Chủ động điều chỉnh chiến lược thị trường gắn với lộ trình hội nhập các FTA; coi trọng phát triển thị trường trong nước gắn với thị trường ngoài nước, đa dạng hoá phương thức xuất khẩu qua biên giới và xuất khẩu tại chỗ.
- Giảm dần tỷ trọng của các thị trường công nghệ thấp và trung bình ở khu vực châu Á, tăng dần tỷ trọng của các thị trường có công nghệ cao như EU, Bắc Mĩ, Nhật Bản, Liên Bang Nga. Hướng mạnh vào các thị trường tiềm năng lớn, các nền kinh tế mới nổi để đón bắt cơ hội thị trường dài hạn cho phát triển xuất khẩu.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia các FTA có chọn lọc, theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Việc tham gia ký kết các FTA mới cần phù hợp định hướng điều chỉnh thị trường trong thời kỳ chiến lược. Chủ động ứng phó có hiệu quả với những tác động bất lợi của các FTA đã ký kết đến tình hình nhập khẩu và nền kinh tế xã hội để giữ vững an ninh kinh tế, an toàn sức khoẻ cho cộng đồng.
3. Cấu trúc lại nền kinh tế để đảm bảo độ an toàn cần thiết trong điều kiện hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng xuất khẩu.
- Chuyển dịch nền kinh tế theo hướng hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết nhưng tham gia ngày càng sâu rộng vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Tiếp tục củng cố các ngành chủ chốt để đảm bảo độ an toàn cần thiết cho nền kinh tế, trước hết là đảm bảo an ninh lương thực, an toàn năng lượng và an toàn tài chính quốc gia.
- Cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển những ngành sản phẩm có tiềm năng phát triển quy mô lớn, có hiệu quả kinh tế cao, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao... đủ khả năng thoả mãn nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho đất nước và có dự trữ một phần để dự trữ và xuất khẩu, củng cố các vùng sản xuất lương thực để đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
- Cơ cấu lại ngành công nghiệp, ưu tiên phát triển mạnh các ngành áp dụng công nghệ cao, các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh, có giá trị gia tăng cao và có khả năng tham gia mạng lưới sản xuất và các chuỗi giá trị toàn cầu. Thúc đẩy phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ, coi trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn và các ngành sản phẩm từ công nghệ mới, công nghệ cao. Tạo bước đột phá trong nâng cấp trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất công nghiệp để chuyển nhanh động năng chính của tăng trưởng công nghiệp từ lao động và vốn sang tăng năng suất lao động, từ phát triển công nghiệp dựa vào các yếu tố sản xuất là chính sang dựa vào hiệu quả và sáng tạo là chính.
- Cơ cấu lại các ngành dịch vụ theo hướng phát triển mạnh các dịch vụ tài chính, tiền tệ, gắn với cấu trúc lại hệ thống NH, hệ thống tài chính - tiền tệ để làm nòng cốt cho xây dựng nền tài chính lành mạnh, an toàn có nguồn dự trữ ngoại hối mạnh, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nước ngoài về tài chính.
- Tập trung sức phát triển một số ngành dịch vụ mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế phát triển định hướng xuất khẩu như: Hàng hải, Hàng không, Viễn thông, Du lịch, Y tế, Xuất khẩu lao động ... để giảm dần thâm hụt và hướng tới có thặng dư cán cân dịch vụ. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu hàng hoá XNK theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của nhóm hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, tăng nhanh tỷ trọng nhóm máy móc thiết bị và công nghệ nhập khẩu trong cơ cấu hàng hoá nhập khẩu. Tăng tỷ trọng công nghệ cao và trung – cao trong cấu trúc XNK hàng hoá. Trên cơ sở đó, giảm nhanh thâm hụt và hướng tới thặng dư cán cân thương mại, làm nòng cốt để xác lập cán cân vãng lai một cách khoa học, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
4. Tiếp tục xây dựng, củng cố các trụ cột của năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Tập trung các nỗ lực của cả nước tăng nhanh năng suất lao động để tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cao mức sống của người dân. Để tăng nhanh năng suất lao động, cần thực hiện các nhiệm vụ chiến lược sau:
+ Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, gắn khoa học công nghệ với đào tạo và với sản xuất kinh doanh, tạo lập tiềm lực khoa học công nghệ đủ mạnh để sáng tạo và làm chủ các công nghệ cần thiết cho phát triển nền kinh tế.
+ Xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ. Củng cố và phát triển các yếu tố nâng cao hiệu quả của nền kinh tế như giáo dục và đào tạo bậc trung học phổ thông, bậc đại học và cao đẳng, đào tạo nghề, nâng cao hiệu quả của thị trường hàng hoá, sức lao động, thị trường tài chính để tăng hiệu suất, vận dụng các yếu tố nguồn lực, tăng cường mức độ sẵn sàng về công nghệ cho nền kinh tế.
+ Khuyến khích xu hướng xã hội và tôn vinh những nỗ lực của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vượt lên trước trong các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào yếu tố sáng tạo và hiện đại.
- Phát huy tối đa vai trò của Chính phủ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nâng cao hiệu năng của Chính phủ trong giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Có các biện pháp quyết liệt để giảm thiểu các tổn thương cho nền kinh tế khi có chấn động đột ngột từ bên ngoài.
+ Việc xây dựng chính sách và việc ban hành các quyết định quản lý điều hành cần quy tụ được đội ngũ đông đảo các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, các viện nghiên cứu và các trường đại học.
III. Kết luận
Để đạt được mục tiêu và định hướng chiến lược thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập siêu thời kỳ tới 2020, lĩnh vực XNK cần phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển xuất khẩu sao cho cân đối giữa chiều rộng và chiều sâu, hài hoà lợi ích giữa các ngành hướng về xuất khẩu và các ngành thay thế nhập khẩu. Xuất nhập khẩu cần thiết phải được cơ cấu lại một cách thật khoa học để nâng cao chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước./..
TS.Trần Văn Hùng