Cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam chống quân Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979 đã đi vào lịch sử 40 năm, nhưng âm hưởng vẫn còn trong tâm trí của mỗi người, trong nghiên cứu, kể cả những cựu chiến binh của hai bên đã từng tham chiến.
Đã có nhiều nghiên cứu với những góc nhìn, đánh giá khác nhau và cũng còn nhiều vướng mắc khó giải thích, cho nên dẫn đến có những cách hiểu, sự đánh giá thế này hay thế khác. Việc xem xét, đánh giá một cách chính xác, khoa học cuộc chiến tranh này rất cần thiết để trả lại công bằng cho lịch sử, để có nhận thức, thái độ đúng, để suy ngẫm trong hiện tại và tương lai.
Mục tiêu bá quyền nước lớn
Xem xét, đánh giá một cuộc chiến tranh nổ ra phải thật sự tôn trọng khách quan, toàn diện, lịch sử và cụ thể. Lịch sử mấy nghìn năm, từ buổi đầu dựng nước đến nay, Trung Quốc đã tiến hành 14 cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, trong đó có 13 cuộc của các triều đại phong kiến phương Bắc.
Bộ Chỉ huy mặt trận Lạng Sơn cùng chỉ huy Đoàn 327 bàn phương án tác chiến tại hang Chùa Tiên. (Thị xã Lạng Sơn). (Ảnh: TTXVN) |
Tưởng rằng, truyền thống xấu xa đó sẽ mất đi trong thời hiện đại, văn minh và đặc biệt trong điều kiện cả hai dân tộc cùng được gọi là nước xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, những nhà lãnh đạo Trung Quốc thời kỳ đó vẫn ôm mộng bá quyền nước lớn, mặc dù đã giúp đỡ Việt Nam tiến hành chiến tranh chống thực dân, đế quốc, nhưng bên trong vẫn âm thầm lợi dụng thực hiện mục tiêu này.
Cách thức ấy không đạt được mục tiêu khi Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (30/4/1975), đi lên chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc đã nuôi dưỡng, sử dụng Khmer đỏ làm tên lính xung kích tiến hành chiến tranh xâm lấn biên giới Tây Nam Việt Nam. Việt Nam bắt buộc phải bảo vệ Tổ quốc và quân tình nguyện Việt Nam vì nghĩa vụ quốc tế cao cả đã giúp bạn giải phóng dân tộc Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng.
Cuộc chiến đã cận kề chiến thắng hoàn toàn thì các nhà lãnh đạo Trung Quốc không thể để yên. Cùng với đó, trong nước (Trung Quốc), lãnh đạo đang phải tranh chấp với các lực lượng đối lập diễn ra quyết liệt. Không còn con đường nào khác, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc tháng 2/1979. Qua đó thực hiện “một mũi tên bắn nhiều mục tiêu” trong chiến lược bá quyền nước lớn của họ. Nguyên nhân của cuộc chiến tranh này là từ phía Trung Quốc.
Cuộc chiến tranh phi nghĩa
Việc xác định chính nghĩa hay phi nghĩa của một cuộc chiến tranh phải có căn cứ khách quan, khoa học. Căn cứ cơ bản nhất là ở mục đích chính trị của mỗi bên tham chiến. Mục đích áp đặt chế độ lệ thuộc, thôn tính một dân tộc có chủ quyền, hợp hiến pháp quốc tế thì thuộc phi nghĩa và ngược lại là chính nghĩa.
Cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979 nằm trong mục tiêu phục vụ mộng bá quyền nước lớn, bắt Việt Nam phải lệ thuộc, phụ thuộc... là phi nghĩa. Cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979 của nhân dân Việt Nam là chính nghĩa. Bởi, phía Việt Nam là chống lại sự áp đặt, sự lệ thuộc, phụ thuộc vào Trung Quốc, bảo vệ hòa bình, độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ, đi lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế thời đại hiện nay.
Với dân tộc Việt Nam, hòa bình, hòa hiếu với các nước láng giềng; độc lập tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ là truyền thống lâu đời. Con người Việt Nam căm ghét chiến tranh, không bao giờ đi xâm lược nước khác. Tuy nhiên, con người Việt Nam cũng không cúi đầu khuất phục trước bất cứ một thế lực, một đội quân xâm lược nào, mà sẵn sàng tiến hành chiến tranh “chính nghĩa, tự vệ chính đáng” một cách kiên cường, dũng cảm để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ quyền dân tộc. Cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979 của Việt Nam cũng nằm trong tiến trình logic lịch sử ấy và là chính nghĩa, chính đáng, phù hợp với xu thế lịch sử.
Chiến sĩ Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Đoàn H54 bộ đội địa phương tỉnh Hoàng Liên Sơn dũng cảm giữ chốt, tiêu diệt hàng trăm tên địch trong ngày 17/2/1979. (ảnh: TTXVN) |
Một lẽ thông thường là đối với dân tộc nói chung, dân tộc Việt Nam nói riêng bắt buộc phải tiến hành cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc để có hòa bình đã thể hiện tính chất chính nghĩa một cách rõ ràng. Việt Nam có hòa bình và không bao lâu thì lại phải tiến hành chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979 càng cho thấy tính chính nghĩa, mà công luận tiến bộ thế giới đã thừa nhận.
Trước tòa án lương tâm, lương tri của nhân loại, cuộc chiến tranh do Trung Quốc xâm lược Việt Nam tháng 2/1979 là vô nhân đạo, phản nhân văn. Một nước lớn, cậy đông dân, tiềm lực kinh tế, quân sự lớn gấp nhiều lần, tự xưng là một nước xã hội chủ nghĩa mà tiến hành xâm lược Việt Nam, một nước nhỏ, láng giềng, luôn muốn giữ hòa bình, hòa hiếu thì cả những con người ít hiểu biết cũng khó chấp nhận.
Quân Trung Quốc tiến đến đâu đều phá phách tất cả cơ sở hạ tầng; giết biết bao người dân vô tội, để lại sự hoang tàn ở tất cả các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam là một sự nhẫn tâm vô cùng lớn. Những nhân chứng, vật chứng, đặc biệt là các quân nhân tham gia chiến tranh của cả hai bên không thể phai mờ trong tâm tưởng.
Dù có bao biện, che đậy hay tuyên truyền trên các thông tin đại chúng bằng các cách gọi “dạy cho Việt Nam một bài học; Việt Nam là tiểu bá...” hay vin vào các nguyên cớ này, khác thì cũng không thể làm đảo lộn được chân lý thời đại, đổi phi nghĩa thành chính nghĩa.
Cuộc chiến tranh của Trung Quốc xâm lược Việt Nam tháng 2/1979 gây tổn thất rất lớn cho cả hai bên. Sự thất bại trong cuộc chiến tranh này khiến Trung Quốc tụ rút ra bài học cho mình. Đối với Việt Nam, bài học lớn là luôn cảnh giác trong bất kỳ trường hợp nào. Bài học này còn có thể cảnh tỉnh đối với các nước trên thế giới, chỉ có con đường hợp tác hòa bình, vì lợi ích chính đáng của các bên, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau mới là con đường bền vững, lâu dài, phù hợp với mong muốn của nhân loại tiến bộ.