Tuy nhiên, trong hợp tuyển văn học của các cây bút nữ Việt Nam đương đại sắp được dịch và xuất bản tại Mỹ, Tiến sĩ Võ Hương Quỳnh và cộng sự của mình đã cố gắng tuyển chọn những tác phẩm khắc họa hình tượng nhân vật nữ không cam chịu hoàn toàn như thế.
Chúng ta cùng trò chuyện với chị về bản dạng giới trong cuộc sống, văn học, nhất là văn học nữ, và vấn đề dịch văn học Việt Nam.
- Trong đất nước còn bị ảnh hưởng của giới luật Nho giáo, chị làm thế nào để khẳng định bản dạng giới của mình?
Tiến sĩ Võ Hương Quỳnh: Tôi may mắn được sinh ra trong một gia đình có hai chị em gái nên từ bé đã luôn được ba mẹ tạo điều kiện để học hành và theo đuổi những mơ ước của riêng mình. Khi trưởng thành và lập gia đình, tôi lại gặp được một người chồng hiểu biết, luôn động viên và cùng tôi chia sẻ mọi công việc trong nhà và ngoài xã hội.
Do đó, ở góc độ cá nhân, trong vai trò là một người phụ nữ trong gia đình, tôi chưa từng phải đấu tranh cho quyền lợi của mình.
Tuy nhiên, trong môi trường làm việc, đôi khi tôi cũng gặp phải những lời khích lệ có phần hoài nghi từ phía những đồng nghiệp nam, chẳng hạn như: “Chồng con thế rồi mà còn nghiên cứu được vậy là giỏi đấy”, hoặc những câu hỏi thăm dò, kiểu: “Không phải phụ nữ dù học hành đến đâu thì cuối cùng cũng về phục vụ chồng con sao?”.
Tôi không biết các bạn đồng nghiệp nam của tôi sẽ trả lời như thế nào nếu tôi cũng hỏi họ những câu gần như thế. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn phải định vị lại và điều chỉnh bản dạng giới của mình để không buộc mình phải đánh đổi những giá trị bản thân cho bất kỳ một giới luật hay danh hiệu phù phiếm nào.
- Nhận xét của chị về tình hình thơ văn Việt Nam thập niên qua, và nhận xét riêng về văn học nữ? Chị có nhận thấy sự dịch chuyển nào trong phong cách và xử lý đề tài của các nữ nhà văn Việt Nam?
Trong mười năm trở lại đây, văn học Việt Nam phong phú hơn nhiều về cả thể loại, đề tài, và số lượng tác phẩm. Với nguồn tài nguyên mở trên Internet, mạng xã hội, cùng với sự đam mê khám phá thể nghiệm những phong cách sáng tác mới, các tác giả cũng ngày càng dễ dàng tiếp cận độc giả và giới thiệu tác phẩm của mình hơn trước đây.
Sự đa dạng này cũng đáp ứng được thị hiếu của nhiều tầng lớp và thế hệ độc giả Việt Nam trong và ngoài nước. Tôi nghĩ đó cũng là xu hướng tất yếu của thế giới.
Riêng đối với văn học nữ, so với thế hệ cầm bút đi trước như nhà văn Trần Thùy Mai, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Dạ Ngân, Lê Minh Khuê… các nhà văn nữ trẻ hiện nay dường như có nhiều chất liệu để viết hơn vì xã hội ngày càng phát triển, kéo theo những dịch chuyển về giá trị văn hóa, truyền thống, tập quán quen thuộc...
Mọi sự thay đổi đều có những mặt tốt đẹp và hạn chế của nó. Bằng trái tim nhạy cảm và ngòi bút uyển chuyển của mình, những nhà văn trẻ như Nguyễn Ngọc Tư, Võ Diệu Thanh, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Nguyễn Thị Kim Hòa... đã khắc họa những số phận với nhiều góc khuất khác nhau của đời sống.
Tuy nhiên, phần đông những nhân vật nữ trong các tác phẩm của họ, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dường như vẫn xem nghịch cảnh là định mệnh: Phải thỏa hiệp trong nước mắt với những bất công, hay chỉ biết phản kháng nhẹ nhàng khi đối mặt với những điều ngang trái.
Nhìn chung, khuynh hướng xây dựng nhân vật nữ của các nhà văn nữ gần đây vẫn thiên về sự nhẫn nhịn trong muộn phiền hoặc chấp nhận thiệt thòi để đổi lấy cảm giác được bình yên.
Judith Butler, một lý thuyết gia về giới nổi tiếng của Mỹ cho rằng, giới là khái niệm được quy ước bởi xã hội, và mỗi người đều có quyền thể hiện bản dạng giới khác nhau của mình để thay đổi những quy ước đó.
Bởi, không phải ai cũng phù hợp với những định danh về giới mà xã hội áp đặt cho họ. Nếu văn học nữ giới luôn đặt phụ nữ ở vị trí yếu đuối, cam chịu, và thiệt thòi thì những người phụ nữ cứng cỏi, mạnh mẽ và độc lập sẽ mặc nhiên bị xã hội xem là nằm ngoài quy ước về nữ giới.
Theo tôi, văn học nữ cần chú trọng hơn đến sự thay đổi cảm thức về giới. Khi phụ nữ đấu tranh cho bình đẳng giới và nữ quyền không có nghĩa là họ đấu tranh chống lại nam giới, mà cùng với nam giới đấu tranh chống lại những bất công, tiêu cực trong xã hội để xây dựng cuộc sống tốt đẹp, nhân ái, và văn minh hơn.
- Nói thêm về thơ ca có ý kiến rằng ngày nay chúng ta nên giải phóng thơ khỏi tháp ngà và đưa thơ trở về với đời sống thường nhật. Chị có suy nghĩ thế nào về ý kiến đó?
Audre Lorde, một nhà thơ da màu có ảnh hưởng lớn của Mỹ đã từng viết, “thi ca không phải là sự phù phiếm”, bởi thi ca cần phải là ánh sáng soi rọi vào những góc khuất của đời sống mà ở đó người đọc có thể tìm thấy sức mạnh để thay đổi thực tại.
Do đó, nếu nhà thơ chỉ ẩn náu trong tháp ngà và tự đánh thức những cảm xúc thuần túy trong tâm hồn mình; để tự vuốt ve, xoa dịu một nỗi cô đơn mơ hồ nào đó, thì sự cảm tác đó chỉ dừng lại ở mức độ giải trí, một món quà xa xỉ cho những tâm hồn viển vông, xa rời thực tại.
Trong giới phê bình văn học ở Mỹ hay trên thế giới, người ta vẫn không ngừng tranh cãi về tính chính trị trong các tác phẩm nghệ thuật. Luôn có ý kiến cho rằng, chính trị làm vẩn đục văn học.
Tuy nhiên, tôi cho rằng, sứ mệnh của văn học không chỉ gắn liền với đời sống, mà còn thay đổi đời sống bằng những can thiệp chính trị để hướng đến những thay đổi đó. Do vậy, văn học mà không có yếu tố chính trị cũng gần như là một sự vẩn đục bởi đã đánh mất đi giá trị thiêng liêng của nó.
- Trong số các nhà thơ thuộc thế hệ mới, những người lang thang trên phố, kể chuyện đời thường, nhiều người định nghĩa thơ của họ là “thơ rác, thơ nghĩa trang, thơ bẩn”. Theo chị, ngụ ý này là gì? Và tác giả nên đầu tư vào khía cạnh nào để nâng cao giá trị, tư tưởng tác phẩm của mình hơn nữa?
Mỗi nhà thơ đều có quyền định nghĩa bản thể thi ca của riêng mình, và tôi trân trọng những sự định vị mang những dấu ấn đời sống khác nhau của họ, bởi giá trị thật sự của một bài thơ không đến từ những định nghĩa hay định vị bản thể thi ca đó, mà giá trị thực sự của thơ được thể hiện ở triết lý và cảm thức của nhà thơ về cuộc sống khiến người đọc phải trăn trở, hoài nghi, thức tỉnh, và thay đổi.
Ở Mỹ, khoa Văn học luôn đi đầu trong những phong trào đấu tranh cho sự bình đẳng xã hội. Chẳng hạn, các đồng nghiệp và sinh viên trong khoa Văn học Anh - Mỹ ở Trường Hawaii, nơi tôi đang giảng dạy không chỉ đấu tranh bằng ngòi bút, họ dấn thân vào các phong trào biểu tình bất bạo động để giành lại công lý cho những thành phần phải chịu thiệt thòi, bị đàn áp trong xã hội.
Nhìn chung, tôi vẫn tin rằng để viết nên một tác phẩm có tư tưởng và giá trị trường tồn thì các nhà văn, nhà thơ, bên cạnh việc tiếp cận gần hơn với đời sống, cần phải bền bỉ trang bị cho mình nền tảng vững chắc về triết học, chính trị, văn hóa, tâm lý học, lịch sử... bởi văn học sẽ không thể chạm đến trái tim những người đọc chân chính nếu không dựa trên những nền tảng tư duy về tri thức nhân loại.
- Trong thời đại của Internet, sự khác biệt giữa nhà văn nội địa Việt Nam và nhà văn hải ngoại có còn giá trị?
Sự phát triển của công nghệ thông tin cũng đang xóa mờ đi rất nhiều biên giới. Tuy nhiên, vẫn còn những rào cản vô hình đã tạo nên sự khác biệt giữa nhà văn hải ngoại và nhà văn trong nước. Rào cản đó chính là tư duy về lịch sử và văn hóa.
Trong khi các nhà văn hải ngoại thường viết về ký ức và những trăn trở với quá khứ, thời cuộc, thì các nhà văn trẻ trong nước lại có khuynh hướng mải mê thể nghiệm, khám phá những đề tài hiện đại hoặc phong cách sáng tác mới mà chưa thực sự tham gia đối thoại về văn học để tạo nên sự giao thoa về ý thức hệ, lịch sử, chính trị và từ đó tìm thấy những tiếng nói chung.
Những nhà văn gốc Việt sinh ra ở nước ngoài và sáng tác bằng tiếng Anh thì không hiểu lắm về tiếng Việt cũng như văn hóa của Việt Nam, và những sáng tác của họ cũng chưa được phổ biến nhiều ở trong nước, nên tuy là mạng xã hội và Internet luôn rộng mở, sự khác biệt giữa nhà văn trong nước và hải ngoại vẫn còn khá lớn.
- Tại sao thơ văn Việt Nam được giới thiệu ra nước ngoài còn quá ít? Và có cách gì để cải thiện tình trạng đó?
Sở dĩ thơ văn Việt Nam vẫn còn chưa được biết đến nhiều trên thế giới vì thứ nhất là vấn đề quy trình khá phức tạp: Chẳng hạn, để xuất bản sách như tiểu thuyết, tuyển tập thơ, hồi ký ở Mỹ thì trước hết tác giả cần phải dịch tác phẩm của mình ra tiếng Anh và phải chủ động tiếp cận với công ty trung gian (agent) chuyên về xuất bản ở Mỹ để giới thiệu tác phẩm của mình.
Nếu được chấp nhận, công ty trung gian đó sẽ tự tìm nhà xuất bản và thực hiện tất cả những khâu còn lại như ký hợp đồng bản quyền, phát hành, quảng bá trên truyền thông, lấy đánh giá phản hồi của độc giả...
Thứ hai, những thể loại có thể xuất bản tại thị trường nước ngoài thường phải có dấu ấn đặc sắc về chính trị, văn hóa, lịch sử, con người của Việt Nam trong mối tương quan với thế giới, chẳng hạn như những đề tài về chiến tranh và hậu chiến; toàn cầu hóa, văn hóa hậu thuộc địa... mới có thể thu hút được độc giả bên ngoài vì nó cho thấy một Việt Nam không tách biệt hay tồn tại ngoài thế giới.
Theo tôi, các tác giả trong nước vẫn có thể dịch ra tiếng Anh và xuất bản những tác phẩm như truyện ngắn, thơ, và tiểu luận của mình ở những tạp chí văn học nước ngoài mà không cần qua trung gian.
Tuy nhiên, để mang nền văn học Việt Nam đến gần hơn với thế giới, cần có những dự án kết nối và hợp tác giữa các nhà văn trong nước và các nhà văn ở hải ngoại biết tiếng Anh để cùng dịch và xuất bản hai chiều ở trong và ngoài nước.
- Xin cảm ơn chị!