Từ việc tự đánh giá của nhà trường theo Bộ chỉ số sẽ bổ sung cơ sở thực tiễn quan trọng nhằm huy động nguồn lực, triển khai đồng bộ giải pháp để từng bước nâng cao mức độ chuyển đổi số ngành Giáo dục.
Nhanh chóng triển khai
Bộ chỉ số được ban hành kèm theo Quyết định số 4725/QĐ-BGDĐT ngày 30/12/2022. Theo đó, mức độ chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục được đánh giá theo 2 nhóm tiêu chí thành phần (nhóm tiêu chí “Chuyển đổi số trong dạy, học” và nhóm tiêu chí “Chuyển đổi số trong quản trị cơ sở giáo dục”) với thang điểm tối đa là 100.
Mỗi nhóm tiêu chí được đánh giá ở ba mức độ. Mức chưa đáp ứng (mức độ 1): Tổng điểm của mỗi nhóm tiêu chí dưới 50. Ở mức này, cơ sở giáo dục chưa đáp ứng các yêu cầu cơ bản về triển khai chuyển đổi số. Mức đáp ứng cơ bản (mức độ 2): Tổng điểm của mỗi nhóm tiêu chí đạt từ 50 đến 75. Ở mức này, cơ sở giáo dục đã đáp ứng yêu cơ bản về triển khai chuyển đổi số. Mức đáp ứng tốt (Mức độ 3): Tổng điểm của mỗi nhóm tiêu chí đạt trên 75, đồng nghĩa cơ sở giáo dục đáp ứng tốt các yêu cầu cơ bản và một số yêu cầu nâng cao về triển khai chuyển đổi số.
Theo đánh giá của thầy Trịnh Nguyễn Thi Bằng, Hiệu trưởng Trường THPT Trần Đại Nghĩa (Cần Thơ), Bộ chỉ số đầy đủ, khách quan, sát thực tế, bảo đảm mục đích thúc đẩy chuyển đổi số và theo dõi, đánh giá thực chất, công bằng kết quả chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục. Bộ chỉ số cũng giúp phát hiện các điển hình, mô hình chuyển đổi số làm tốt để nhân rộng, tạo phong trào trong toàn ngành.
Nhận định giai đoạn đầu, Trường THPT Trần Đại Nghĩa chỉ đạt mức độ 1, thầy Trịnh Nguyễn Thi Bằng chia sẻ những khó khăn của nhà trường khi chưa có đơn vị cung cấp hệ thống LMS/LCMS đáp ứng yêu cầu thực tế, chi phí lại cao. Đa số trường dùng phần mềm riêng lẻ, chưa có hệ thống quản trị nhà trường nào đáp ứng được yêu cầu thực tế. Không có kỹ thuật, thiết bị số hóa học liệu. Tỷ lệ phòng học, số máy tính yêu cầu cao, khó đáp ứng cho mức 2, mức 3.
Sau khi Bộ GD&ĐT ban hành Quyết định số 4725/QĐ-BGDĐT, một số địa phương đã nhanh chóng có văn bản hướng dẫn triển khai tại địa phương. Như Bắc Giang, ngày 6/1, sở GD&ĐT đã có văn bản yêu cầu các phòng GD&ĐT huyện/thành phố, đơn vị trực thuộc sở GD&ĐT tuyên truyền, phổ biến, tổ chức nghiên cứu, triển khai áp dụng Bộ chỉ số trong hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), chuyển đổi số. Thường xuyên rà soát, tự đánh giá theo Bộ chỉ số để kịp thời bổ sung các nội dung còn thiếu/chưa phù hợp làm cơ sở (minh chứng) khi triển khai đánh giá chính thức theo quy định của Bộ GD&ĐT và văn bản của sở GD&ĐT.
Cùng ngày, Sở GD&ĐT Bến Tre cũng có văn bản triển khai áp dụng Bộ chỉ số. Theo Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Bùi Minh Nhựt, các phòng GD&ĐT, trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên, Trường Phổ thông Hermain Gmeinner, Trường Năng khiếu Thể dục Thể thao, đơn vị trực thuộc sở được yêu cầu nghiên cứu, quán triệt quy định về Bộ chỉ số đánh giá chuyển đổi số của Bộ GD&ĐT.
Phổ biến nội dung về đánh giá mức độ chuyển đổi số được quy định tại Bộ chỉ số đến cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và chuẩn bị các điều kiện, yêu cầu để thực hiện đánh giá mức độ chuyển đổi số. “Sở GD&ĐT sẽ ban hành văn bản hướng dẫn công tác đánh giá chuyển đổi số sau khi có văn bản hướng dẫn của Bộ GD&ĐT về cách đánh giá, sử dụng phần mềm đánh giá”, ông Bùi Minh Nhựt cho hay.
Ảnh minh họa/ INT |
Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số
Thái Thụy (Thái Bình) là địa phương triển khai khá tốt ứng dụng CNTT, chuyển đổi số trong dạy học. Ông Đỗ Trường Sơn, Trưởng phòng GD&ĐT Thái Thụy, cho biết: Ngành đã triển khai nhiều giải pháp nhằm tăng cường ứng dụng CNTT và chuyển đổi số trong GD-ĐT. Có thể kể đến việc triển khai đồng bộ mô hình thư viện đạt chuẩn mức độ 2 theo Thông tư 16/2022/TT-BGDĐT ban hành quy định tiêu chuẩn thư viện giáo dục mầm non, phổ thông; trong đó quan tâm xây dựng kho học liệu điện tử.
Tăng cường trang thiết bị CNTT, phòng GD&ĐT đã tham mưu UBND huyện ban hành Quyết định 667/QĐ-UBND phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng CNTT ngành GD-ĐT giai đoạn 2017 - 2020, định hướng đến năm 2025. Quan tâm chương trình môn Tin học để nâng cao năng lực ứng dụng CNTT cho học sinh; thúc đẩy giáo viên tiếp tục tự học, tự rèn…
“Có thể khẳng định, về quan điểm chỉ đạo, ngành GD-ĐT ưu tiên thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số. Trong đó khuyến khích giáo viên sử dụng giáo án điện tử thay cho giáo án in truyền thống với trên 80% giáo viên sử dụng. Đồng thời, tiếp tục sử dụng hiệu quả các hệ thống quản lý nhà trường; xây dựng kho học liệu mở của ngành để cán bộ, giáo viên, học sinh chia sẻ video giảng dạy và tài liệu học tập…”, ông Đỗ Trường Sơn chia sẻ.
Đối với huyện Thanh Thủy (Phú Thọ), thời gian vừa qua, ngành GD-ĐT huyện đã tích cực triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm số hóa cơ sở dữ liệu ngành phục vụ chuyển đổi số và hướng tới chính quyền điện tử. Phòng GD&ĐT cho biết đã chỉ đạo cơ sở giáo dục cập nhật dữ liệu lên cơ sở dữ liệu ngành, triển khai sổ liên lạc điện tử, xây dựng kho dữ liệu số các video bài giảng, ngân hàng đề thi phục vụ giảng dạy trực tuyến.
Chia sẻ thông tin, kết nối liên thông giữa các cơ sở giáo dục, phòng GD&ĐT, sở GD&ĐT và dữ liệu quốc gia về giáo dục. Để việc số hóa trong các cơ sở giáo dục được đồng bộ, hiệu quả, đại diện lãnh đạo Phòng GD&ĐT huyện Thanh Thủy cho rằng, cần phải có giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ. Từ đổi mới tư duy của lãnh đạo các cơ sở giáo dục đến bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, giáo viên các đơn vị trường học và bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ việc số hóa và chuyển đổi số.
Từ thực tế Trường THPT Trần Đại Nghĩa, thầy Trịnh Nguyễn Thi Bằng nhìn nhận triển khai chuyển đổi số với cả thuận lợi và khó khăn. Theo đó, thuận lợi là có chủ trương thống nhất từ Trung ương đến địa phương, ngành dọc. Công nghệ phát triển mạnh, nhiều máy móc, phần mềm, nhiều dịch vụ được cung cấp. Có sự đồng thuận của xã hội do phù hợp với xu thế phát triển. Tuy nhiên, khó khăn nằm ở kinh phí trang bị phần cứng, phần mềm, bồi dưỡng huấn luyện cán bộ giáo viên… Cần có sự đồng bộ, hệ thống trong trang bị phần mềm để bảo đảm liên thông dữ liệu trong từng trường và trong toàn ngành Giáo dục.
“Hiện, nhà trường không có cán bộ chuyên trách về CNTT. Do đó, cần biên chế nhân viên chuyên trách CNTT trong trường học là ý kiến tôi muốn đề xuất. Bên cạnh đó, nhà trường cũng mong được bố trí thêm kinh phí thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số, tránh giao việc mà không giao thêm kinh phí. Đồng thời, có sự chỉ đạo thống nhất từ sở GD&ĐT trong trang bị phần mềm để bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, liên thông dữ liệu”, thầy Trịnh Nguyễn Thi Bằng chia sẻ.