Những kỷ niệm đáng nhớ
Thiếu tá Lò Văn Thoại là nhân viên Đội Vận động quần chúng, Đồn Biên phòng Mường Lèo, Ban Chỉ huy bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La. Từ năm 2003 đến nay, hơn 20 năm trong quân ngũ, đồng thời cũng là hơn 20 năm anh trực tiếp đứng lớp giảng dạy xóa mù chữ. Anh đã tham mở, giảng dạy 12 lớp với khoảng 300 học viên tại các bản vùng cao biên giới huyện Sốp Cộp (trước đây) của tỉnh Sơn La.
Thiếu tá Lò Văn Thoại chia sẻ, công tác dạy xóa mù chữ ở vùng cao biên giới có nhiều đặc thù và khó khăn. Thành phần học viên rất đa dạng, có cả người lớn tuổi, thanh thiếu niên, thậm chí cả những em nhỏ theo bố mẹ đến lớp; đa số đều là người nghèo, người dân tộc thiểu số, thuộc nhóm yếu thế.
Về ngôn ngữ, nhiều người không biết, không thể giao tiếp bằng tiếng phổ thông. Thời gian học tập thì hết sức linh hoạt, có thể buổi tối nếu vào ngày mùa, có thể ban ngày nếu vào ngày mưa. Địa điểm lớp học cũng rất linh hoạt, khi thì nhà văn hoá bản, khi thì mượn lớp học của các trường… Quy định của lớp học cũng hoàn toàn tự nguyện, không thể ép buộc…
Không được đào tạo bài bản về nghiệp vụ sư phạm, để vượt qua rào cản ngôn ngữ và tạo sự gần gũi với học viên, Thiếu tá Lò Văn Thoại chủ động học tiếng Mông từ chính học viên để có thể giao tiếp và giảng dạy. Nội dung bài học phải gắn với những vấn đề hết sức đời thường. Học cụ cũng được tận dụng từ chính những vật dụng quen thuộc như bắp ngô, quả bí, hình ảnh đồ dùng, hoạt động… giúp học viên dễ hiểu, dễ tiếp thu hơn.
Chia sẻ kỷ niệm trong hơn 20 năm dạy xóa mù chữ, Thiếu tá Lò Văn Thoại kể lại: Năm 2017, khi tổ chức lớp học xóa mù chữ tại bản Nậm Lạn, xã Mường Lạn (bản người Mông), có một học viên tên Giàng Thị Pạ Dê, sinh năm 1983. Ban đầu, cô không đến lớp, nhưng lại nói với những người khác rằng mình muốn đi học mà không biết thầy giáo có cho học hay không. Sau khi gửi lời nhắn “mời cô Pạ Dê đến lớp”, nhưng học viên vẫn không đến, tôi đã nhờ người đưa mình đến nhà chị Pạ Dê.
Qua tìm hiểu mới biết học viên này có hoàn cảnh rất éo le: chồng bị bắt vì mua bán nhựa thuốc phiện, một mình nuôi bốn con, cuộc sống vô cùng khó khăn. Chị không đến lớp vì mặc cảm về hoàn cảnh của mình. Sau nhiều lần vận động, tôi mới biết mỗi lần chị đi thăm chồng phải nhờ người trong bản đi cùng, nhờ họ viết giấy gửi lên xã… nhờ nhiều thì ngại, người ta cũng không muốn đi. Tôi tác động vào chính nhu cầu đó, đồng thời giải thích thêm về pháp luật; và kết quả là chị Pạ Dê đã đến lớp.
“Rất vui là khi kết thúc khóa học, chị đã đọc, viết thuần thục chữ quốc ngữ, nói tiếng phổ thông thành thạo và được kết nạp Đảng. Nay chị là Bí thư, Trưởng bản, có uy tín cao. Chồng chị sau khi thụ án trở về, biết chuyện đã rất cảm ơn tôi và Đồn Biên phòng; chúng tôi trở nên thân thiết và anh ấy trở thành một quần chúng tốt của đơn vị”, Thiếu tá Lò Văn Thoại chia sẻ.
Một kỷ niệm khác: Đầu năm 2022, Thiếu tá Lò Văn Thoại công tác tại bản Pá Khoang, xã Mường Và, là bản thuần nhất là dân tộc Mông cách trung tâm xã khoảng 20km. Chặng đường đi phải lội qua suối, vượt qua đèo hơn hai tiếng mới lên tới nơi, dù thời tiết thuận lợi.
Ở Pá Khoang 2 ngày, Thiếu tá Lò Văn Thoại nhận thấy nơi đây còn rất nhiều khó khăn, đặc biệt đường sá đi lại. Về kinh tế, văn hóa, xã hội, tình trạng tái mù chữ và mù chữ, tình trạng tảo hôn vẫn còn diễn ra và nguy cơ bị lôi kéo, lợi dụng bởi kẻ xấu là rất hiển hiện.
Thực tế đó khiến Thiếu tá Thoại trăn trở, làm thế nào giúp được bà con nơi đây biết đọc chữ, biết viết.
Về đơn vị, sau khi đề xuất với Ban Chỉ huy Đồn và được đồng ý, Thiếu tá Thoại đã phối hợp với cấp ủy, ban quản lý bản rà soát, lập danh sách vận động các trường hợp tái mù chữ và mù chữ trong bản tham gia lớp học; đồng thời, tham mưu cấp ủy, chỉ huy đơn vị phối hợp với Phòng GD&ĐT huyện để mở lớp xóa mù chữ tại bản Pá Khoang.
Lớp học đó, Thiếu tá Lò Văn Thoại tiếp tục được cấp ủy, chỉ huy đơn vị phân công trực tiếp giảng dạy. Do nhiều học viên là lao động chính trong gia đình, ban ngày phải đi làm nương, nên lớp học phải mở vào buổi tối.
“Khó khăn nhất là vận động các học viên đến lớp. Vợ đi học thì chồng ghen, chồng đi học thì vợ ghen, nên thời gian đầu lớp học chỉ có 7 đến 8 học viên. Sau đó, tôi đã mời các cặp vợ chồng cùng tham gia học; hoặc người đi học có con, em, bạn bè đi cùng giúp đỡ... Kết quả, đã có 24 học viên với độ tuổi từ 14 - 45 tuổi tham gia lớp. Kết thúc khoá học tôi rất tự hào được dân bản Pá Khoang đặt tên “Thầy Thoại”, “Thầy giáo quân hàm xanh””, Thiếu tá Thoại kể lại.
Người dạy phải bền bỉ, thấu hiểu và đồng cảm
Chia sẻ kinh nghiệm vận động học viên tham gia học tập, Thiếu tá Lò Văn Thoại cho rằng, mỗi học viên đều có một hoàn cảnh, một trang đời rất đặc biệt. Làm thế nào để họ xoá bỏ mặc cảm, khơi dậy nhu cầu học chữ đó lại là những câu chuyện dài; đòi hỏi người dạy, người vận động phải bền bỉ, thấu hiểu và đồng cảm, chia sẻ ngay từ khi vận động đi học và cả trong quá trình học tập.
Để dạy hiệu quả, người dạy phải am hiểu ngôn ngữ tiếng dân tộc của người học; phải biến những nội dung lên lớp thành những vấn đề đời thường, dễ hiểu, dễ nhớ và trước hết cần dạy những nội dung thiết thực nhất của giao tiếp hàng ngày.
Thiếu tá Lò Văn Thoại chia sẻ, đến nay, nhiều học viên của mình từ việc không biết chữ, biết số, không thể viết tên, không biết sử dụng điện thoại, hiện nay đã biết đọc, biết viết, biết sử dụng điện thoại thông minh. Từ việc phải đi hàng chục cây số để nhờ người thân hỗ trợ, thì nay bà con đã có thể sử dụng điện thoại để liên lạc nhanh chóng hơn.
Bà con dần nhận thức rằng việc học chữ không chỉ giúp đọc, viết, tính toán được mà còn hỗ trợ rất nhiều trong đời sống hằng ngày như chăm sóc sức khỏe gia đình, nâng cao kiến thức chăn nuôi, phát triển kinh tế và tự tin hơn trong giao tiếp. Đồng thời, họ cũng quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình.
“Đối với tôi, danh hiệu ‘Thầy giáo quân hàm xanh’, hay cách bà con gọi tôi là ‘Thầy giáo’ là những danh xưng vô cùng cao quý. Đó cũng chính là động lực để tôi không ngừng phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và thêm gắn bó với bà con vùng biên cương Tây Bắc”, Thiếu tá Lò Văn Thoại bày tỏ.