Nỗ lực xóa mù chữ, giảm chênh lệch vùng miền
Báo cáo của Bộ GD&ĐT cho thấy các chỉ số đầu vào, đầu ra, tỉ lệ huy động học sinh và chất lượng giáo dục ở các cấp đều tăng trưởng tích cực, đặc biệt ở những địa phương còn nhiều khó khăn về kinh tế – xã hội.
Dù tỉ lệ trẻ trong độ tuổi đến trường tăng tại nhiều địa bàn, song nhờ làm tốt công tác điều tra phổ cập, dự báo chính xác biến động dân số học đường, các địa phương đã kịp thời bố trí nguồn lực, đầu tư cơ sở vật chất và bổ sung đội ngũ giáo viên. Nhờ đó, các trường học cơ bản đáp ứng được yêu cầu về sĩ số theo quy định, bảo đảm chất lượng dạy – học và mục tiêu phổ cập bền vững.
Kết quả này phản ánh sự đầu tư đồng bộ của các tỉnh/thành phố vào hệ thống trường lớp, chương trình hỗ trợ học sinh yếu thế, cũng như chính sách thu hút – bồi dưỡng giáo viên.
Năm học 2024 – 2025, Việt Nam tiếp tục duy trì tỉ lệ huy động trẻ em đến trường thuộc nhóm cao nhất khu vực.
• Cấp tiểu học: 99,7% trẻ em trong độ tuổi đến lớp đúng quy định.
• Chuyển tiếp từ tiểu học lên THCS: tỉ lệ đạt 98,23%.
Các địa phương không chỉ duy trì chuẩn phổ cập mà còn phấn đấu đạt mức độ cao hơn. Công tác vận động học sinh, đặc biệt là trẻ có hoàn cảnh khó khăn, trẻ khuyết tật, được triển khai hiệu quả, giúp mọi trẻ em đều có cơ hội tiếp cận giáo dục cơ bản.
Miền núi và vùng khó khăn đạt bước tiến vượt bậc
Ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên – nơi điều kiện kinh tế, giao thông và hạ tầng còn nhiều hạn chế – tiến bộ trong phổ cập giáo dục được đánh giá rất ấn tượng.
• 100% xã trong toàn khu vực đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.
• Tỉ lệ huy động trẻ 5 tuổi ra lớp đạt từ 98% đến 100%.
• 97,7% trẻ 5 tuổi được học 2 buổi/ngày; 95,1% được ăn bán trú.
• Tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng duy trì ở mức dưới 10%.
Nhiều địa phương còn thực hiện tốt các chính sách của Chính phủ như hỗ trợ ăn trưa cho trẻ mẫu giáo, hỗ trợ giáo viên dạy tăng cường tiếng Việt, tổ chức lớp ghép, trợ cấp cho trẻ em là con công nhân tại khu công nghiệp. Đây là những yếu tố quan trọng giúp nâng cao chất lượng chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi sẵn sàng vào lớp 1.
Lan tỏa từ cộng đồng đến vùng sâu, vùng biên giới
Trong 5 năm thực hiện Chương trình quốc gia xóa mù chữ, tỉ lệ biết chữ ở nhóm tuổi 15 – 60 tiếp tục tăng hằng năm. Các tỉnh/thành phố trên cả nước đều duy trì 100% đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1, trong đó có 55/63 tỉnh (87,3%) đạt mức độ 2 – mức cao nhất hiện nay.
Toàn quốc đã huy động 261.130 người tham gia học xóa mù chữ (bình quân hơn 52 nghìn người/năm). Lực lượng giáo viên và cộng tác viên xóa mù chữ về cơ bản đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là tại các trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm GDNN – GDTX.
Nhiều mô hình linh hoạt, thiết thực đã được triển khai:
• Các lớp học ở vùng biên do bộ đội Biên phòng trực tiếp đứng lớp (Thanh Hóa, Sơn La, Điện Biên...).
• Các lớp xóa mù chữ tại trại giam và cơ sở cai nghiện, tổ chức bởi trung tâm GDTX phối hợp với trường phổ thông trên địa bàn.
• Mô hình gắn xóa mù chữ với phát triển sinh kế, hỗ trợ vật chất cho học viên, được một số đơn vị quân đội triển khai.
Công tác tuyên truyền được thực hiện hiệu quả, ban chỉ đạo ở các cấp được kiện toàn, phân công nhiệm vụ rõ ràng và có kế hoạch hằng năm với chỉ tiêu cụ thể. Nhờ đó, phong trào học chữ lan tỏa mạnh mẽ, giúp người dân trưởng thành hơn trong nghề nghiệp và đời sống.
Các chính sách khuyến học như miễn giảm học phí, học bổng, mở rộng hệ thống trường THPT nội trú, lớp bán trú… đã giúp tỉ lệ học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học lên THPT hoặc các chương trình giáo dục tương đương duy trì ở mức trên 85% tại hầu hết các tỉnh.
Song song với đó, mạng lưới giáo dục nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng phát triển mạnh mẽ, tạo lựa chọn đa dạng cho học sinh không theo học THPT, giúp các em vẫn có thể định hướng nghề nghiệp và phát triển bản thân phù hợp.
Những kết quả đạt được trong phổ cập giáo dục và xóa mù chữ giai đoạn 5 năm qua khẳng định nỗ lực lớn của toàn ngành và các địa phương trong việc hoàn thành mục tiêu bảo đảm tiếp cận giáo dục cơ bản cho mọi người dân. Sự vào cuộc của hệ thống chính trị, sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội và sự đồng lòng của cộng đồng đã góp phần thu hẹp khoảng cách vùng miền, nâng cao chất lượng sống của người dân, đặc biệt tại những khu vực còn khó khăn.
Việt Nam từng bước khẳng định mô hình phát triển giáo dục mang tính bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau – nền tảng quan trọng để nâng tầm chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai.