Tuy nhiên, công cuộc “xanh hóa” đại học vẫn còn nhiều rào cản.
Từ “công trình xanh” đến “con người xanh”
Là một trong những ngôi trường tiên phong theo đuổi giá trị xanh kể từ những ngày đặt nền móng đầu tiên, Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam (BUV) không chỉ chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng xanh, mà còn coi trường học là môi trường hình thành ý thức và trách nhiệm cho thế hệ trẻ. GS Rick Bennett – Phó Hiệu trưởng kiêm Phó Chủ tịch BUV khẳng định, trường muốn trở thành hình mẫu thực tiễn để truyền cảm hứng cho sinh viên, những người sẽ đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường.
Minh chứng cho tầm nhìn kiên định này là việc BUV trở thành trường đại học duy nhất tại Việt Nam đạt chứng chỉ EDGE Nâng cao (tiêu chuẩn công trình xanh quốc tế) cho cả 2 giai đoạn khuôn viên với mức yêu cầu tiết kiệm năng lượng tại chỗ ít nhất 40% so với công trình thông thường.
Thành viên Nhóm Ngân hàng Thế giới ghi nhận, các sáng kiến xanh tại BUV không chỉ kiến tạo môi trường học tập bền vững, mà còn góp phần nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động vì môi trường trong cộng đồng sinh viên nói riêng và toàn xã hội nói chung. Việc khuôn viên của BUV đạt chứng nhận EDGE Nâng cao đã đưa trường vào nhóm các đơn vị tiên phong trong phát triển bền vững tại Việt Nam. Những nỗ lực này đã giúp tiết kiệm hàng triệu kWh điện, hàng nghìn mét khối nước và giảm tới 112.000 tấn khí thải CO₂ mỗi năm.
Không chỉ là công trình thân thiện môi trường, không gian xanh còn phục vụ sứ mệnh giáo dục bền vững. Bà Nguyễn Thị Vĩnh Thủy - Giám đốc Điều hành cấp cao (Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam) nhấn mạnh, phát triển bền vững là trọng tâm trong chương trình giảng dạy của trường, thông qua các học phần về đạo đức doanh nghiệp và du lịch có trách nhiệm.
Theo đó, BUV không chỉ tích hợp nguyên tắc xanh vào chương trình giảng dạy, mà còn khuyến khích cán bộ, sinh viên tham gia bảo vệ môi trường. Sinh viên được tham gia nhiều hoạt động thông qua chương trình Nâng cao năng lực và phát triển kỹ năng xã hội (PSG) liên quan đến phát triển bền vững để nâng cao ý thức và trách nhiệm xã hội.
Với vai trò là cơ sở giáo dục đại học trọng điểm quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, GS.TS Nguyễn Thị Lan - Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho hay, học viện đang triển khai đào tạo hơn 70 ngành học ở cả 3 trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ; trong đó có các ngành mũi nhọn như: Khoa học môi trường, quản lý đất đai, công nghệ sinh học, phát triển nông thôn bền vững - trực tiếp phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
Giai đoạn 2015 - 2025, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã công bố hơn 100 sản phẩm khoa học và công nghệ được cấp văn bằng sở hữu trí tuệ hoặc công nhận tiến bộ kỹ thuật. Nhiều công trình trong số đó hướng tới giảm phát thải, tái tạo tài nguyên, cải thiện môi trường sinh thái.
“Đặc biệt, Học viện đang tích cực nghiên cứu và phát triển các công cụ đo lường - báo cáo - thẩm định (MRV) phục vụ cơ chế tín chỉ carbon trong nông nghiệp - một trong những nội dung quan trọng góp phần hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam”, GS.TS Nguyễn Thị Lan chia sẻ.

Nhiều thách thức
Từ thực tiễn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành cho biết, Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ với các viện nghiên cứu, trường đại học để chuyển giao công nghệ cao, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học, viễn thám trong quản lý môi trường và sản xuất nông nghiệp, tiến tới xây dựng hệ thống dữ liệu môi trường nông nghiệp số toàn quốc.
Bên cạnh đó, các viện, trường đại học cần đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu về tài nguyên đất, nước, môi trường nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Theo Báo cáo của IFC - thành viên của nhóm Ngân hàng Thế giới, tổ chức phát triển Hệ thống chứng nhận công trình xanh EDGE, khoảng 50% các nhà xây dựng đều cho rằng, chi phí cao là trở ngại lớn nhất trong việc mở rộng các công trình xanh tại Việt Nam. Trong đó, thiếu nguồn đầu tư là yếu tố lớn nhất khiến cho các công trình xanh hiện nay còn hạn chế.
Tuy nhiên, chi phí không phải là rào cản duy nhất, bởi theo ARDOR Green - đơn vị tư vấn công trình xanh tại Việt Nam, với các dự án mới được thiết kế và xây dựng tối ưu, việc xanh hóa hoàn toàn khả thi khi mức gia tăng chi phí chỉ khoảng 1% so với tổng mức đầu tư ban đầu.
Do đó, ông Đặng Hoàng Long - chuyên gia về thiết kế bền vững tại ARDOR Green cho rằng, xanh hóa đại học còn chậm là bởi nhận thức và năng lực triển khai chưa đồng bộ, thiếu đội ngũ chuyên môn về công trình xanh, thiếu cơ chế khuyến khích và chính sách hỗ trợ chuyên biệt… Song, đây là bước đi tất yếu, vì một tương lai bền vững hơn, mà môi trường giáo dục luôn là nền tảng. Xu hướng xanh hóa đã được nhiều trường đại học hàng đầu trên thế giới đầu tư quy mô lớn và triển khai đồng bộ trên toàn hệ thống.
Đơn cử như: Đại học Stanford (Mỹ) xây dựng hệ thống năng lượng giảm 80% khí nhà kính, dùng 100% điện tái tạo từ 2022 và đặt mục tiêu net zero đến năm 2050. Đại học Oxford (Anh) cũng cam kết đạt net zero carbon và tăng đa dạng sinh học ròng vào 2035 với Quỹ Bền vững lên đến 200 triệu bảng Anh. Oxford triển khai chiến lược xanh toàn diện trên 10 lĩnh vực, thành lập các trung tâm nghiên cứu hàng đầu và hợp tác với chính quyền, doanh nghiệp thực hiện mô hình vùng phát thải thấp và trung tâm năng lượng tích hợp.
Ở châu Á, Đại học Quốc gia Singapore (NUS) đã ra mắt cụm công trình đầu tiên hướng tới mục tiêu net-zero, gồm ba tòa nhà với giải pháp tái sử dụng công trình cũ và áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng tiên tiến. Đồng thời, NUS thành lập trung tâm liên ngành NUS Cities nhằm phát triển các giải pháp đô thị bền vững, kiên cường và đáng sống cho Singapore và khu vực.
Ngoài ra, Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc) áp dụng mô hình Trường đại học xanh toàn diện từ 1998. Khuôn viên trường duy trì hơn 57% diện tích xanh, thực hiện tiết kiệm năng lượng và giảm ô nhiễm.
Tại Hội thảo “Phát triển nông nghiệp bền vững gắn với bảo vệ môi trường”, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan đề nghị, các trường, viện nghiên cứu, nhất là các đơn vị đào tạo thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần bổ sung nội dung bảo vệ môi trường vào chương trình đào tạo chính quy. Theo đó, việc soạn giáo trình không chỉ dành cho sinh viên, mà cần tính đến phục vụ cho người dân các địa phương. Vì thế, nên sử dụng ngôn ngữ đời thường, dễ hiểu, dễ hình dung.