Để làm tốt những yêu cầu, nhiệm vụ của nghề người học cần có đủ năng lực ngôn ngữ, năng lực diễn thuyết, truyền đạt kiến thức, diễn giải…
Có tính ứng dụng thực tiễn cao
Sư phạm Vật lý đào tạo kiến thức chuyên môn về Vật lý cũng như nghiệp vụ sư phạm, đảm bảo phẩm chất đạo đức người học. Trong đó bao gồm các kiến thức cơ bản về Vật lý đại cương, Vật lý lý thuyết, thí nghiệm Vật lý, áp dụng Vật lý vào kỹ thuật và thiết bị công nghiệp.
Trao đổi với Báo GD&TĐ, TS Ngô Văn Quang Bình, Phó Trưởng khoa Vật lý, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, cho biết: Ngành Sư phạm Vật lý là một trong các ngành thuộc khối sư phạm có tính ứng dụng thực tiễn cao. Đối với các bạn trẻ, nếu mong muốn được học một ngành thú vị, yêu thích sự sáng tạo, khám phá những nguyên lý, định luật… và áp dụng chúng vào đời sống thì đây chắc chắn là ngành rất phù hợp.
Ngành Sư phạm Vật lý thuộc Khoa Vật lý của Đại học Sư phạm Huế hiện nay đang có 3 chương trình đào tạo là cử nhân Sư phạm Vật lý, cử nhân Vật lý tiên tiến và cử nhân Sư phạm Vật lý bằng tiếng Anh. Với tổ hợp các môn xét tuyển của 3 chương trình gồm: Toán - Vật lý - Hóa, Toán - Vật lý - Tiếng Anh, Toán - Vật lý - Sinh học và Toán - Khoa học tự nhiên - Tiếng Anh.
Các phương thức xét tuyển được áp dụng hiện nay gồm: Xét tuyển dựa trên kết quả thi tốt nghiệp THPT, xét tuyển học bạ, xét tuyển thẳng, xét tuyển theo phương thức riêng của Đại học Huế và xét tuyển theo đánh giá năng lực của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và TPHCM.
Tại các cơ sở đào tạo trong nước hiện nay, sinh viên theo học ngành này sẽ được đào tạo kiến thức đại cương về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, tin học, ngoại ngữ. Cùng với quá trình đào tạo đó là học kiến thức cơ bản và chuyên sâu về Vật lý, về khoa học giáo dục và sư phạm. Các sinh viên cũng được trau dồi và rèn luyện cả những kỹ năng sử dụng các phương pháp cơ bản, hiện đại giảng dạy Vật lý và công nghệ dạy học.
Các môn học trong chương trình đào tạo ngành Sư phạm Vật lý chi tiết như Vật lý đại cương, Cơ lý thuyết, Lí luận dạy học Vật lý, Lịch sử Vật lý…
Sau khi tốt nghiệp, cử nhân Sư phạm Vật lý có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để tham gia công tác giảng dạy tại các trường THCS, THPT, cao đẳng, đại học và các cơ sở nghiên cứu khoa học trong cả nước.
Thạc sĩ Nguyễn Văn Ton đứng lớp truyền đạt kiến thức cho học sinh. |
Tiềm năng phát triển rất lớn
TS Ngô Văn Quang Bình nhìn nhận, tiềm năng phát triển của ngành Sư phạm Vật lý còn rất lớn. Khối ngành này là điểm sáng được nhiều bạn trẻ ưu ái bởi cơ hội việc làm đa dạng sau khi tốt nghiệp.
Sinh viên học ngành Sư phạm Vật lý khi ra trường có rất nhiều cơ hội việc làm với các vị trí khác nhau không chỉ giới hạn trong việc dạy học. Các bạn trẻ có thể làm việc tại các vị trí như giáo viên, giảng viên dạy môn Vật lý ở các cấp trường THCS, THPT, trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học trong cả nước hoặc làm nghiên cứu viên tại các viện nghiên cứu về Vật lý và các lĩnh vực liên quan. Đây là môi trường và cơ hội để bạn thỏa sức thực nghiệm các sáng kiến, ý tưởng của bản thân qua những kiến thức Vật lý đã được học, tạo ra những điều hữu ích cho xã hội.
Không chỉ vậy, các sinh viên sau khi tốt nghiệp còn có thể làm cán bộ làm việc tại các cơ sở ứng dụng khoa học kĩ thuật trên các lĩnh vực: Quang học, điện, điện tử, thiết bị khoa học - kĩ thuật hoặc về đầu quân tại các công ty công nghệ cao và phần mềm. Đây là nhóm nghề mà nhiều bạn sinh viên Sư phạm Vật lý có thể đảm nhận tốt và có cơ hội thăng tiến trong tương lai.
5 năng lực cần và đủ
Với kinh nghiệm hơn 10 năm trong nghề, cựu sinh viên ngành Sư phạm Vật lý, Thạc sĩ Nguyễn Văn Ton, Tổ trưởng chuyên môn tại Trường THPT Đặng Huy Trứ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế, cho hay: Để làm tốt những yêu cầu, nhiệm vụ của nghề Sư phạm Vật lý, người lao động cần có 5 yếu tố căn bản nhất.
Thứ nhất, là năng lực ngôn ngữ, năng lực diễn thuyết, truyền đạt kiến thức, diễn giải… Năng lực này không phải tự nhiên mà có được, đây là quá trình rèn luyện và huấn luyện trong môi trường sư phạm, trong các câu lạc bộ và trong thực tiễn. Năng lực này cần được rèn luyện một cách thường xuyên, liên tục của người thầy trong quá trình công tác.
Thứ hai, năng lực vận dụng kiến thức về tâm lý học lứa tuổi để giáo dục học sinh, đặc biệt là học sinh khác biệt.
Thứ ba, năng lực về kiến thức trau dồi, rèn luyện kiến thức đã được học ở trường sư phạm, thường xuyên cập nhật kiến thức mới để truyền đạt cho học sinh để từ đó truyền cảm hứng cho học sinh học Vật lý.
Thứ tư, năng lực sử dụng các thiết bị, đồ dùng dạy học, đặc biệt là tự làm đồ dùng dạy học để bổ trợ cho những thiết bị dạy học ở trường phổ thông.
Thứ năm, năng lực sử dụng phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học. Điều này chúng ta cần phải khám phá, vận dụng, các phương pháp kỹ thuật dạy học Vật lý để truyền tải những kiến thức Vật lý tưởng như khô khan nhưng khi áp dụng kỹ thuật dạy học hợp lý thì trở nên rất mượt mà và hấp dẫn học sinh, sẽ khiến học sinh hứng thú, yêu thích, đam mê bộ môn này hơn.