Quy định bổ sung trường hợp được miễn thuế TNCN

Quy định bổ sung trường hợp được miễn thuế TNCN
Chỉ được miễn thuế TNCN khi bán căn nhà duy nhất của chủ sở hữu (ảnh minh họa)
Chỉ được miễn thuế TNCN khi bán căn nhà duy nhất của chủ sở hữu (ảnh minh họa)

Đối với cá nhân đã có nhà ở, đất ở, nay có phát sinh thêm việc chuyển nhượng hợp đồng góp vốn để có quyền mua nền nhà, căn hộ, hoặc chuyển nhượng hợp đồng mua nền nhà, mua căn hộ thì thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng này phải nộp thuế TNCN.

Các trường hợp nhận thừa kế, quà tặng là hợp đồng góp vốn để có quyền mua nền nhà, căn hộ không được miễn thuế TNCN theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 của Nghị định 100/2008 ngày 8/9/2008 của Chính phủ.

Đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, Thông tư quy định cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản áp dụng thuế suất 25% tính trên thu nhập tính thuế phải đáp ứng đủ 4 điều kiện về giá chuyển nhượng; giá mua và các chi phí liên quan; cá nhân chuyển nhượng bất động sản tự kê khai, tự xác định mức thuế suất áp dụng và chịu trách nhiệm về tính chính xác của hồ sơ kê khai; cá nhân kê khai nộp thuế theo thuế suất 25% tính trên giá chuyển nhượng nhưng qua kiểm tra thấy giá chuyển nhượng ghi trên hợp đồng và kê khai thuế thấp hơn giá do UBND cấp tỉnh quy định thì tính thuế theo thuế suất 2% trên giá do UBND cấp tỉnh quy định.

Cá nhân cư trú có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công đóng các khoản bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Bộ Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội được trừ các khoản bảo hiểm này vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế. Tiền đóng bảo hiểm của năm nào được trừ vào thu nhập chịu thuế của năm đó.

Cá nhân người nước ngoài là đối tượng cư trú tại Việt Nam, người Việt Nam là cá nhân cư trú nhưng làm việc tại nước ngoài có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công ở nước ngoài tham gia đóng các khoản bảo hiểm bắt buộc theo quy định của quốc gia cá nhân cư trú mang quốc tịch tương tự quy định của pháp luật Việt Nam như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp bắt buộc và các khoản bảo hiểm bắt buộc khác (nếu có) thì được trừ các khoản phí bảo hiểm đó vào thu nhập chịu thuế từ kinh doanh, tiền lương, tiền công khi tính thuế TNCN.

Các đối tượng được giảm trừ vừa nêu trên phải có chứng từ chứng minh đã nộp các khoản bảo hiểm bắt buộc theo quy định của nước ngoài. Chứng từ chứng minh gồm: chứng từ thu tiền của cơ quan bảo hiểm hoặc xác nhận của cơ quan chi trả thu nhập về số tiền bảo hiểm đã khấu trừ, đã nộp (trường hợp cơ quan chi trả nộp thay).

Cá nhân người nước ngoài và người Việt Nam có tham gia đóng góp các khoản bảo hiểm nêu trên ở nước ngoài sẽ được tạm giảm trừ ngay vào thu nhập để khấu trừ thuế trong năm (nếu có chứng từ) và quyết toán theo số chính thức khi hết năm; trường hợp không có chứng từ để tạm giảm trừ trong năm thì sẽ giảm trừ 1 lần khi quyết toán thuế.

Thông tư này cũng quy định không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công một số khoản mà cán bộ công chức, cán bộ chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang được chi trả hoặc đơn vị chi trả thanh toán hộ các cá nhân theo chế độ quy định của Nhà nước như: Phụ cấp phục vụ; Chế độ trang bị hoặc khoản được nhận theo chế độ khoán sử dụng xe ô tô phục vụ công tác; khoản được nhận theo chế độ nhà công vụ theo quy định hiện hành.

Bên cạnh đó, các khoản được nhận của cán bộ công chức và những cá nhân khác được nhận từ các công việc như: Tham gia ý kiến, thẩm định, thẩm tra các văn bản pháp luật, Nghị quyết, các báo cáo chính trị; tham gia các đoàn kiểm tra giám sát; tiếp cử tri, tiếp công dân; trang phục và các công việc khác có liên quan đến phục vụ trực tiếp hoạt động của Văn phòng Quốc hội cũng không phải tính vào thu nhập chịu thuế.

Anh Thư

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Minh họa: Vietpink

Truyện ngắn: Mở trái tim yêu

GD&TĐ - Hạnh phúc của người đàn bà chính là có người đàn ông để nương tựa, nhưng Hiền thấy, đàn ông chỉ đem đến sự khổ đau...