(GD&TĐ) - Đó là lời của cụ Phan Khôi – Ngự sử văn đàn, người mở đầu phong trào Thơ Mới với thầy giáo - nhà thơ Thúc Hà, một trong những nhà thơ đầu tiên ở Việt Nam đạt giải thưởng quốc tế. Sách giáo khoa ở trường phổ thông từng đưa bài thơ “Chờ con má nhé” vào giảng dạy. Biết bao thế hệ học sinh đã thuộc lòng và có người đến bây giờ, sau gần 60 năm vẫn còn nhớ như in những câu thơ tình nghĩa đó...
Hà Thúc Chỉ nguyên quán xã Hương Chữ, (Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế), sinh năm 1934 tại thành phố Vinh (Nghệ An). Ngay từ nhỏ, ông đã ham học và say mê đọc sách, lại được mẹ - bà Hoàng Thị Tường Vi, một nhà sư phạm mẫu mực rèn cặp. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 1946, Hà Thúc Chỉ tình nguyện đi học trường Thiếu sinh quân Liên khu IV. Năm sau trường giải thể, ông vào học Trường cấp III Huỳnh Thúc Kháng (Nghệ An), tốt nghiệp năm 1952. Với ý chí hiếu học, Hà Thúc Chỉ đã đi bộ từ Nghi Lộc (Nghệ An) ra Cầu Kè (Thanh Hóa) học Trường Dự bị đại học khóa 2 (1953 -1954). Tại đây, thầy Cao Xuân Huy đã chỉ bảo và tận tình giúp đỡ ông trong suốt thời gian học tập. Ngày giải phóng thủ đô, trường chuyển về Hà Nội. Hà Thúc Chỉ trở thành sinh viên năm thứ 2 khóa I Trường ĐHSP Văn khoa vừa thành lập (nay là Trường ĐHSP Hà Nội).
Năm 1955, Hà Thúc Chỉ với bút danh Thúc Hà đã trình làng bài thơ đầu tiên Chờ con má nhé, đặt những viên gạch đầu tiên vào làng thơ. Bài thơ Chờ con má nhé lan truyền trong cả nước, là tiếng nói của hàng triệu trái tim người dân Việt với nỗi đau chia cắt hai miền. Bài thơ được nghệ sĩ Châu Loan nhiều lần ngâm trong buổi Tiếng thơ trên đài Tiếng nói Việt Nam. Sách giáo khoa giảng dạy ở trường phổ thông thời đó cũng đưa bài thơ vào. Năm 1955 tại Vacsava, bài thơ Chờ con má nhé được trao tặng Huy chương vàng Đại hội. Một Đại hội đông đảo với 114 đoàn đại biểu, ban giám khảo cuộc thi do nhà thơ nổi tiếng Thổ Nhĩ Kì: Nadim Hitmet làm chánh chủ khảo. Để truyền tải tới thanh niên sinh viên thế giới, bài thơ được nhà thơ Phạm Huy Thông (GS - VS, Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội, Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam) dịch ra tiếng Pháp, một người khác dịch ra tiếng Anh và Bùi Sơn Tùng (nay là Anh hùng Lao động – Nhà văn Sơn Tùng), Phó Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam khi đó - ngâm đầy xúc động trước tuổi trẻ 114 nước bằng tiếng mẹ đẻ thân thương.
Khi đoàn trở về, đã có một buổi tổ chức long trọng để trao tặng phần thưởng trên cho tác giả Thúc Hà tại Câu lạc bộ Đoàn Kết (trụ sở Đảng Xã hội Việt Nam, gần Nhà hát lớn Hà Nội). Có lần Bùi Quang Đoài và Hà Thúc Chỉ vừa bước lên cầu thang Hội Nhà văn Việt Nam bên cạnh một buồng xép ở 51 Trần Hưng Đạo, chợt thấy một cụ già mở cửa bước ra. Bùi Quang Đoài chào và giới thiệu nhà thơ trẻ Thúc Hà với bài thơ Chờ con má nhé. Thế là ông cụ vội lấy tay bỏ cái mũ “kê pi” dạ Trung Quốc, chào “ga lăng” theo kiểu Pháp nịnh đầm, khom người gần sát đất, đưa tay phải cầm mũ vái dài: “Kính chào nhà thơ tài ba của đất nước”. Hà Thúc Chỉ bối rối rồi đâm hoảng khi biết đó là cụ Phan Khôi – Ngự sử văn đàn, người mở đầu phong trào Thơ Mới với bài thơ Tình già.
Trong học tập, Hà Thúc Chỉ đỗ thủ khoa tại kỳ thi tốt nghiệp đại học. Bài luận văn nhan đề Vấn đề con người trong giáo dục đạt điểm cao nhất và được đăng trong Tập san Đại học (Văn khoa) – cơ quan nghiên cứu và thảo luận của bộ phận Văn khoa (Văn Sử Triết) – Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 6 và 7 in năm 1956.
Theo bà Hà Tường Vân (chị ruột nhà giáo Hà Thúc Chỉ - nhà thơ Thúc Hà) thì: Khi tài năng Thúc Hà đang thăng hoa, một chân trời rộng mở đang chờ đón, bỗng đâu những cựu sinh viên ĐHSP Văn khoa: Hà Thúc Chỉ, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Văn Tâm, Bùi Quang Đoài (nhà văn Thái Vũ), Phan Kế Hoành… gặp “tai nạn nghề nghiệp” khi tham gia xuất bản tập san Đất Mới. Hà Thúc Chỉ phải chuyển đến nơi làm việc mới: Ban Tu thư (Bộ phận biên soạn sách giáo khoa) thuộc Vụ Giáo dục phổ thông thuộc Bộ Giáo dục. Từ năm học 1960 - 1961 Hà Thúc Chỉ chuyển về dạy văn ở Trường cấp 3 Ngô Quyền (nay là Trường Trung học Phổ thông Ngô Quyền) thành phố Hải Phòng.
Tên thầy giáo - nhà thơ Thúc Hà không những dạy văn giỏi còn dạy văn hay nhanh chóng lan khắp Hải Phòng. Đam mê với nghề sư phạm, thầy đã dâng hiến tình yêu của mình qua từng bài giảng, miệt mài và không ngừng sáng tạo. Tại đây, Hà Thúc Chỉ gặp Đặng Thị Toán - Cô giáo dạy tiểu học được mệnh danh là “đệ nhất hoa khôi Hải Phòng” những năm 1960. Tình yêu nảy nở giữa hai nhà giáo trẻ và cô đã tạo cảm hứng sáng tác để bài thơ Cô giáo vỡ lòng vừa ra đời đã giành ngay Giải thưởng của báo Người giáo viên nhân dân năm 1961: “Khi bình minh dậy ngoài khơi/ Vạch tia nắng sáng giữa trời đêm đen/ Là từng nét phấn tay em/ Cũng ngời sắc trắng sáng trên bảng này/ Tay em gọi nắng về đây/ Soi bao lòng bé thơ ngây tới trường”.
35 năm gắn bó với Hải Phòng, 35 năm đứng trên bục giảng văn cho học sinh đất cảng. Thầy giáo Hà Thúc Chỉ đã đào tạo nhiều học sinh giỏi quốc gia và đóng góp nhiều chuyên đề, bài giảng trong nhiều hội nghị chuyên đề giảng dạy văn học ở Hải Phòng cũng như toàn quốc. Năm 1994, thầy giáo Hà Thúc Chỉ - nhà thơ Thúc Hà đã mãi đi về cõi vĩnh hằng vì căn bệnh ung thư, trong nỗi niềm tiếc thương của bao người. Không để lại một công trình đồ sộ, chỉ với tập thơ Mưa biển nhỏ nhoi và nhân cách của mình nhưng với những học trò ngưỡng mộ, mến yêu thầy giờ đây vẫn tâm huyết đi trên con đường thầy đã đi – dang dở và lận đận: văn học – và họ đã trở thành hội viên hội nhà văn Việt Nam: Nguyễn Thụy Kha, Phạm Ngà, Phạm Đức, Trần Quốc Minh, Nguyễn Thị Ngọc Hải… “Có thể nói thầy Hà Thúc Chỉ về Hải Phòng là điều không may nhưng riêng lứa học sinh chúng tôi được học thầy là một hạnh phúc lớn. Với tôi thầy không những nhen ngọn lửa văn chương mà còn định hướng cho cuộc đời: Dù thế nào cũng phải đi bằng đôi chân của mình. Hãy sống như một người bình thường! Lời nói gói vàng là như thế!” - Nhà thơ Trần Quốc Minh ngậm ngùi nhớ lại.
Kim Hạnh