Triều đình tôn vinh họ bằng các danh hiệu “Tiết phụ”, “Tiết hạnh khả phong” hay “Liệt nữ” để biểu dương đức hạnh và phẩm giá.
Chuẩn mực “tam tòng, tứ đức”
Theo nghiên cứu châu bản của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, trong xã hội phong kiến Việt Nam, người phụ nữ phải chịu nhiều ràng buộc từ giáo lý “tam tòng, tứ đức”. Sách “Lễ ký” chép về “tam tòng” rằng: “Phụ nữ là phải theo người, lúc nhỏ theo cha anh, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con”. Sách “Chu Lễ” nhấn mạnh “tứ đức” gồm: công (nữ công gia chánh), dung (dung nhan), ngôn (lời ăn tiếng nói) và hạnh (phẩm hạnh).
Những chuẩn mực này được áp dụng trong từng gia đình, từng làng xã, định hình cả lối sống và hành vi của người phụ nữ. Trong bối cảnh đó, những người phụ nữ “tiết liệt” - nghĩa là thủ tiết, chung thủy với chồng dù chồng đã mất, được coi là tấm gương đạo đức, tiêu chuẩn để đánh giá phẩm hạnh phụ nữ.
Những phụ nữ góa chồng phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc này. Họ giữ phương châm “thủ tiết thờ chồng”, không tái giá, ở vậy nuôi con, phụng dưỡng cha mẹ chồng và thờ chồng. Điều này đồng nghĩa với việc chịu thiệt thòi về tinh thần, vật chất và cả cơ hội lập gia đình mới. Họ phải sống trong cảnh “đơn thương độc mã”, tự đối mặt với khó khăn sinh hoạt, kinh tế và cả quan hệ với nhà chồng.

Theo PGS.TS Bùi Xuân Đính và nhà nghiên cứu Đỗ Thị Thanh Huyền, từ thời nhà Lê, triều đình đã tôn vinh những phụ nữ giữ tiết nghĩa và hạnh kiểm theo chuẩn mực Nho giáo, ban danh hiệu “Tiết phụ”, “Tiết hạnh khả phong”, và sau này còn có “Liệt nữ” cho những phụ nữ trẻ chưa chồng mà giữ được phẩm hạnh khi chống lại sự cưỡng bức.
Theo Từ điển Hán - Việt của học giả Đào Duy Anh, “Tiết phụ” là người đàn bà chồng chết mà giữ tiết, không lấy chồng khác; “Tiết hạnh” là “tiết nghĩa” và “hạnh kiểm”. Cụm từ “Tiết hạnh khả phong” được hiểu là người phụ nữ có tiết nghĩa và hạnh kiểm đáng được phong tặng.
Bề ngoài, danh hiệu này thể hiện sự tôn vinh của triều đình, nhưng thực chất phản ánh thân phận thấp kém của phụ nữ trong xã hội quân chủ, nơi Nho giáo chi phối mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Việc phong tặng không chỉ nhằm khen thưởng cá nhân, mà còn nhằm duy trì ổn định quan hệ gia đình và xã hội theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo, bảo đảm lòng trung thành, sự kiềm chế và trật tự trong cộng đồng.
Phụ nữ thời phong kiến dù không được học hành nhưng vẫn được giáo dục về đạo đức, được rèn luyện các phẩm hạnh: Trung trinh, hiếu thảo, lễ nghĩa, nhẫn nhịn. Những người góa chồng tuân thủ chuẩn mực này không chỉ vì danh hiệu, mà còn vì niềm tin đạo đức và quan niệm dân gian “vợ chồng là duyên số”. Họ phải sống trong hoàn cảnh khó khăn, nuôi con, chăm sóc cha mẹ chồng và đối mặt với những thử thách trong đời sống hằng ngày.
Triều Lê tôn vinh phụ nữ giữ tiết
Việc tôn vinh phụ nữ giữ tiết bắt đầu từ triều Lê, được ghi chép rất cụ thể trong các nguồn sử liệu. Tháng Ba năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiệu Bình (1437), Lê Thái Tông đã biểu dương Lê Thị Liễu - vợ góa của Lương Thiên Tích, vì “ở nhà chồng thờ phụng cho đến chết”, nêu được biển khen treo ở cửa nhà. Đời vua Lê Nhân Tông, năm 1456, Nguyễn Thị ở làng Đào Xác, huyện Chí Linh, được phong “Tiết phụ”, treo bảng vàng tại làng, con cháu được miễn phu dịch để phụng dưỡng.
Sử chép rằng, việc ban thưởng cụ thể khác nhau giữa các triều, nhưng đều nhằm tôn vinh phụ nữ giữ tiết nghĩa, biểu dương các phẩm chất đạo đức theo chuẩn mực Nho giáo. Vua Lê Thánh Tông rất coi trọng việc phong “Tiết phụ”. Người phụ nữ đầu tiên được ông ban danh hiệu là Nguyễn Thị Bồ (1463), cho khắc bảng vàng treo ở cửa làng, con cháu một người được miễn phu dịch để nuôi dưỡng.
Việc phong thưởng được đưa vào luật, ví dụ trong “Quốc triều hình luật”, các quan nếu không tâu báo để ban thưởng “những người hiếu hữu và những đàn bà trinh liệt” sẽ bị phạt, hoặc nếu ép phụ nữ góa chồng thủ tiết lấy chồng khác thì phải ly dị.
Dưới các triều vua Lê, việc phong thưởng diễn ra không đều nhưng vẫn ghi nhận một số phụ nữ nổi bật, như Tiết phụ Lê Thị (1684), Phan Thị (1717) tự vẫn theo chồng, được lập đền thờ, ban bảng vàng khắc chữ “Tiết phụ”.
Thời Nguyễn, việc phong thưởng mang tính chính trị, nhằm củng cố lòng trung thành với triều Nguyễn và triều cũ, đồng thời phân cấp các hạng ưu, bình, thứ, kèm theo tiền và vật chất. Ví dụ, Tiết phụ Nguyễn Thị Ngữ (1827) được thưởng 50 lạng bạc, 4 tấm đoạn, cấp biển “Đồng quản phương tiêu”.
Các quy định thời Tự Đức chi tiết hơn: Phụ nữ góa chồng từ 20 - 25 tuổi, có con hay không, nếu giữ tiết và có hành trạng xuất sắc, sẽ được xếp hạng Ưu, Bình hoặc Thứ, kèm theo phần thưởng bằng bạc, biển ngạch, tấm sa. Những phụ nữ từ 26 tuổi trở lên, dù giữ tiết, chỉ được thưởng nếu có phẩm chất xuất sắc. Định lệ này vẫn duy trì đến thời Bảo Đại.
Không chỉ triều đình, làng xã cũng tôn vinh phụ nữ giữ tiết. Điển hình là lễ hội ở làng Xuân Trạch (Hà Nội), nơi phụ nữ góa bụa nhưng không đi bước nữa được dự lễ “chứa chư bà” tại đền Mẫu, với lễ vật công phu như gà trống hoa, xôi, rượu, hoa quả, vàng hương. Việc này vừa là nghi lễ tín ngưỡng, vừa biểu dương đạo đức phụ nữ trong cộng đồng.

Tấm gương tiết hạnh thời Nguyễn
Theo tư liệu nghiên cứu châu bản của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, dưới triều Nguyễn, triều đình ban hành chế độ thưởng cụ thể cho những người phụ nữ giữ tiết hạnh. Châu bản triều Tự Đức ghi: Người phụ nữ từ 20 tuổi trở xuống mà thủ tiết đến ngoài 50 tuổi, có hành động xuất sắc như tự vẫn để giữ tiết hạnh, sẽ được thưởng bốn mươi lạng bạc, hai tấm lụa màu và một tấm biển ngạch. Những người thủ tiết nhưng không đạt mức trên, chỉ lấy một chồng, không tái giá, sẽ được thưởng hạng trung với ba mươi lạng bạc, một tấm lụa màu và một tấm biển ngạch.
Các câu chuyện về những tiết phụ nổi tiếng được ghi chép chi tiết, nhấn mạnh “sự trạng”, những hành động cụ thể của họ để trình lên triều đình xét duyệt. Những câu chuyện này vừa phản ánh đức tính trung trinh, vừa cho thấy nỗi khổ tâm và hi sinh của phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Châu bản triều Nguyễn ghi rõ, Trần Thị Ốc và Lê Thị Huyên (tỉnh Hưng Hóa) là ví dụ điển hình. Trần Thị Ốc, tuổi còn xanh, không có con, ở vậy thờ chồng đến năm 56 tuổi, chỉ theo một chồng, được đánh giá là xứng đáng khen thưởng hạng cao. Lê Thị Huyên, quá 20 tuổi, chồng mất, có con nhưng đứa con lại mất, vẫn thủ tiết cùng người con dâu là Thị Ốc, được công nhận trung hậu và lập tờ tâu đề nghị thưởng.
Đinh Thị Phức (Yên Phú, Ninh Bình) lấy chồng năm 16 tuổi, sinh một con trai nhưng chồng mất khi bà 19 tuổi. Dù còn nhan sắc và nhiều người hỏi cưới, bà không cải giá mà ở vậy nuôi con, giữ trọn lòng trung trinh đến 56 tuổi. Hành động này được chính quyền tỉnh xét duyệt và trình lên triều đình để ban thưởng.
Lê Thị Đoan (Thanh Hóa) là minh chứng khác về sự hy sinh cao cả của người phụ nữ. Chồng mất khi bà 25 tuổi, không có con trai, bà thề thủ tiết và nuôi cháu chồng mới hai tuổi là Nguyễn Sĩ Độ, coi như con ruột. Khi trưởng thành, người cháu này thi đỗ hai khoa Tú tài. Tấm gương này vừa là lòng trung trinh vừa là trách nhiệm với gia tộc.
Trần Thị Cẩn (Hải Yên), sinh con trai, chồng mất khi con mới 2 tuổi, không tái giá mà ôm con về quê cha mẹ, vẫn duy trì việc thờ phụng nhà chồng. Khi bị cường hào ép lấy chồng khác, bà kiên quyết từ chối, được quan địa phương xác thực và ban thưởng hạng thứ.
Nguyễn Thị Tú (Hải Yên) chồng mất, không con, thề thủ tiết, từng nhảy xuống sông tự vẫn nhưng được cứu sống. Hành động được hàng xóm chứng nhận, triều đình ban thưởng hai mươi lạng bạc, hai tấm lụa Nam Sa và một tấm biển ngạch.
Không chỉ những cá nhân được khen thưởng mà thân nhân của họ cũng được ân xá khi phạm tội. Tại An Giang, Hoàng Văn Hổ, con trai duy nhất của một tiết phụ, được miễn án tử hình nhờ mẹ thủ tiết hơn ba mươi năm, chỉ bị xử đánh gậy để phụng dưỡng mẹ già.

Danh dự và nỗi khổ không thể tỏ bày
Chế độ này được duy trì qua nhiều triều vua: Thành Thái, Duy Tân, Bảo Đại. Năm 1898, Nguyễn Thị Vân (Ninh Bình), thủ tiết từ khi chồng mất, nuôi con đỗ Cử nhân, được ban thưởng biển ngạch. Năm 1917, Khải Định thứ 2, 19 tiết phụ từ nhiều tỉnh được ban thưởng biển ngạch sau khi quan địa phương xét duyệt.
Theo PGS.TS Bùi Xuân Đính, danh hiệu “Tiết hạnh khả phong” hay “Liệt nữ” là biểu hiện phẩm giá, giá trị đạo đức mà xã hội phong kiến đề cao. Tuy nhiên, với nhiều phụ nữ, việc giữ tiết không nhằm đạt danh hiệu hay phần thưởng, mà xuất phát từ niềm tin đạo đức, truyền thống và ý thức trách nhiệm đối với gia đình.
Trong nhiều trường hợp, các “Liệt nữ” là những phụ nữ trẻ chống lại cưỡng bức, bị giết hoặc tự vẫn, danh hiệu chỉ là sự an ủi nhỏ bé, không bù đắp nổi nỗi đau và hậu quả của xã hội đối với họ.
Việc giữ tiết khiến phụ nữ phải đối mặt với nỗi hẫng hụt tinh thần, sức khỏe, thiếu chỗ dựa trong đời sống nông nghiệp và xã hội làng xã dựa trên mô hình “nhà - họ - làng”. Họ phải tự mình nuôi con, chăm sóc gia đình chồng và đối phó với sự giám sát khắt khe từ nhà chồng. Với những phụ nữ có con trai, đây là nguồn an ủi; với những người chỉ có con gái hoặc không có con, tuổi già càng khó khăn, phải nhờ đến cháu nuôi hoặc “đặt hậu” cho làng, họ, giáp.
Ngày nay, ảnh hưởng của Nho giáo và quan niệm “Tiết phụ” hầu như không còn. Những phụ nữ trẻ chẳng may góa chồng vẫn “ở lại” vì thương con, không phải vì tuân thủ chuẩn mực đạo đức khắt khe xưa.
Những giai thoại về các tiết phụ không chỉ là câu chuyện về lòng trung trinh và đạo đức, mà còn phản ánh vai trò của phụ nữ trong việc duy trì truyền thống văn hóa và phong hóa địa phương. Họ hi sinh tuổi trẻ, tình cảm riêng, giữ trọn phẩm giá và lòng trung thành với chồng và dòng họ.
Theo Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, nhìn vào những mảnh đời “Tiết phụ”, “Tiết hạnh khả phong” hay “Liệt nữ”, người nay vừa thương cảm vừa nể phục. Những phụ nữ xưa, dù bị ràng buộc bởi giáo lý khắt khe vẫn thể hiện khí tiết và nhân cách đáng trân trọng. Dù không cổ xúy cho lựa chọn khắt khe ấy nhưng tấm gương trung trinh và hi sinh của họ xứng đáng được ghi nhận và tôn vinh.
Năm Bảo Đại thứ 5 (1930) lập tinh biểu cho một tiết phụ ở tỉnh Thanh Hóa: “Lê Thị Kiện ở xã Cổ Định, tổng Cổ Định thắt cổ chết, do thương chồng đã chết mà thủ tiết quyên sinh, xin lập án bất hạnh. Tỉnh ấy nghĩ y theo. Duy Thị Kiện quyên sinh như vậy, xét do trước sau chung tình rất nên khen thưởng. Xin do thiểm bộ thẩm định. Xét nên khen thưởng. Thiểm bộ khảo xét Hội điển năm Thiệu Trị thứ ba có chuẩn y một khoản: Chồng chết mới trong thời gian để tang, đợi chôn cất xong, tự thắt cổ chết theo, tiết tháo như vậy đáng lập một biển tinh biểu. Nay khoản Thị Kiện thủ tiết quyên sinh cũng giống như việc trên. Xin nên cho làm bảng để khuyến khích việc như vậy, trình quan Phụ chính”.