Phân luồng, hướng nghiệp: Tạo đà từ chính sách

GD&TĐ - Để công tác hướng nghiệp và phân luồng đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều giải pháp đồng bộ từ các bên liên quan cũng như thay đổi tư duy, nhận thức của người dân.

Sinh viên Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ (Từ Sơn, Bắc Ninh) thực hành về cơ khí ô tô. Ảnh: Đình Tuệ
Sinh viên Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ (Từ Sơn, Bắc Ninh) thực hành về cơ khí ô tô. Ảnh: Đình Tuệ

Còn thách thức

Thực hiện Đề án 522 về “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh sau THCS giai đoạn 2018 - 2025”, toàn ngành Giáo dục đã có nhiều nỗ lực trong việc đưa giáo dục hướng nghiệp trở thành một phần thiết yếu của chương trình học.

Tuy nhiên, theo TS Hà Văn Hải - Hiệu trưởng Trường THPT Mỹ Tho (Ý Yên, Nam Định), sau nhiều năm triển khai, tình trạng thiếu đồng bộ giữa các vùng miền, hạn chế cơ sở vật chất, thiếu tài liệu chuyên sâu và đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản về hướng nghiệp… vẫn là những yếu tố kìm hãm hiệu quả thực thi chính sách quan trọng này.

Theo phản ánh từ nhiều giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục tại cơ sở, vấn đề lớn nhất hiện nay là thiếu đồng bộ. Trong khi học sinh các thành phố lớn có điều kiện tiếp cận với thông tin nghề nghiệp, được hỗ trợ bởi doanh nghiệp và các trung tâm hướng nghiệp chuyên nghiệp thì ở vùng sâu, xa, công tác này còn mang tính hình thức, thiếu thực chất.

Đội ngũ giáo viên đảm nhiệm công tác hướng nghiệp phần lớn chưa được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực này. Thậm chí, nhiều nơi giao nhiệm vụ hướng nghiệp như một phần việc phụ, không có giờ dạy chính thức, chương trình, tài liệu chuẩn. Điều này dẫn đến học sinh nhận được thông tin nghề nghiệp mơ hồ và khó đưa ra lựa chọn chính xác.

Cơ sở vật chất cũng là rào cản lớn. Các phòng hướng nghiệp, thiết bị mô phỏng trải nghiệm nghề nghiệp gần như vắng bóng ở nhiều trường học. Học sinh không có cơ hội “thử” để hiểu mình phù hợp với nghề nào, từ đó việc định hướng càng thêm mù mờ.

“Chúng tôi kỳ vọng những chuyển biến từ Dự thảo Nghị định mới không chỉ nằm ở tầm vĩ mô mà sẽ chạm đến từng lớp học, học sinh và giáo viên. Để làm được điều đó cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường - phụ huynh - doanh nghiệp - chính quyền địa phương. Đồng thời, xem hướng nghiệp là một phần không thể tách rời của giáo dục toàn diện, thay vì nhiệm vụ ngắn hạn mang tính chất phong trào”, TS Hà Văn Hải nói.

Việc phân luồng và hướng nghiệp thành công không thể đạt được trong một sớm một chiều. Dù vậy, với định hướng rõ ràng từ Dự thảo Nghị định mới, cùng đầu tư bài bản về con người, cơ sở vật chất, nhất là thay đổi trong nhận thức xã hội, ông Hải kỳ vọng vào chuyển biến thực chất, tạo nền tảng vững chắc cho thế hệ trẻ chủ động, sáng tạo và hội nhập hiệu quả trong tương lai.

tao-da-tu-chinh-sach-5.jpg
Học sinh Trung tâm GDNN - GDTX Quận 12, TPHCM được các chuyên gia tư vấn hướng nghiệp. Ảnh: Lâm Ngọc

Định vị đúng vai trò

ThS Phạm Thị Phương - Trưởng Bộ môn Tâm lý học và kỹ năng mềm, Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội cho biết, hiện nhiều học sinh, phụ huynh và một bộ phận giáo viên còn hiểu mơ hồ hoặc phiến diện về ý nghĩa của phân luồng, cho rằng đây là sự “loại trừ” học sinh yếu ra khỏi con đường học vấn chính thống. Phần lớn học sinh lựa chọn nghề nghiệp theo xu hướng đám đông hoặc áp đặt của phụ huynh.

Ngoài ra, nhiều nơi vẫn có tư tưởng “sính” bằng cấp. Đa số trường phổ thông chưa có điều kiện tổ chức hoạt động trải nghiệm ngành nghề thực tế, học sinh ít cơ hội “chạm tay” vào công việc trước khi chọn ngành. Mối liên kết giữa trường học - doanh nghiệp - cơ sở đào tạo nghề còn yếu, hầu như không có hệ thống hỗ trợ học sinh khám phá bản thân qua thực hành.

Về mặt giải pháp, ThS Phạm Thị Phương đề xuất thành lập Trung tâm Hướng nghiệp quốc gia thuộc Bộ GD&ĐT. Trung tâm làm đầu mối thiết kế chương trình, đào tạo nhân lực, phát triển công cụ đánh giá và phối hợp liên ngành; phát triển cơ sở dữ liệu nghề nghiệp và nền tảng số quốc gia về thông tin ngành nghề, thị trường lao động, năng lực phù hợp được tích hợp vào hệ thống quản lý học sinh.

Ngoài ra, mỗi trường THCS, THPT cần có ít nhất 1 - 2 giáo viên chuyên trách hướng nghiệp, được đào tạo và cấp chứng chỉ nghiệp vụ. Thiết lập lộ trình đào tạo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho đội ngũ này; xây dựng bộ công cụ đánh giá năng lực nghề nghiệp cho học sinh theo chuẩn quốc tế như Holland, MBTI nghề nghiệp...

Không dừng ở vài tiết học hướng nghiệp mỗi học kỳ, các trường cần tích hợp định hướng nghề nghiệp vào từng môn học, dự án học tập, hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Khuyến khích triển khai các mô hình “Học cùng doanh nghiệp”, “Thực tập sớm”, “Dạy học gắn với nghề”.

Tăng cường truyền thông đa nền tảng để tạo sự công bằng về giá trị giữa học đại học và học nghề. Cùng đó, gắn câu chuyện thành công của người học nghề với các chương trình truyền hình, mạng xã hội, diễn đàn học sinh - sinh viên.

“Chúng ta cần xây dựng một số trung tâm trọng điểm cấp vùng có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hướng nghiệp; kết nối doanh nghiệp với học sinh và nhà trường; là nơi học sinh các trường đến trải nghiệm thực tế nghề nghiệp; ưu tiên đầu tư tại các địa phương có tỷ lệ học sinh bỏ học cao, vùng sâu xa hoặc có nhiều khu công nghiệp”, ThS Phạm Thị Phương kiến nghị.

tao-da-tu-chinh-sach-4.jpg
Học sinh Trường Trung cấp Nguyễn Tất Thành (TPHCM). Ảnh: Lâm Ngọc

Nhóm giải pháp trọng yếu

Theo ông Mai Hoàng Lộc - Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp Nguyễn Tất Thành (Gò Vấp, TPHCM), triển khai Đề án 522 dù có những bước tiến nhưng chưa đạt được sự đột phá do thách thức kép như: Vừa là bài toán kỹ thuật (cơ chế, chính sách, nhân lực, tài lực), vừa là bài toán văn hóa (nhận thức xã hội, tâm lý phụ huynh - học sinh).

Ông Lộc đánh giá cao Dự thảo Nghị định mới của Bộ GD&ĐT ở sự chuyển dịch từ định hướng chung chung sang các cơ chế cụ thể, đặc biệt việc lồng ghép hướng nghiệp vào chương trình giáo dục phổ thông một cách hệ thống, bắt buộc và gắn với phân tích dữ liệu thị trường lao động. Tuy nhiên, để chính sách đi vào thực tiễn cần những giải pháp căn cơ và nhất quán.

Từ kinh nghiệm quản lý và đào tạo, ông Lộc đề xuất ba nhóm giải pháp trọng yếu gồm: Đầu tư có trọng tâm vào đội ngũ giáo viên hướng nghiệp. Đây là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả của chính sách. Người thực thi - giáo viên - cần hiểu sâu sắc bản chất công việc và được trang bị đầy đủ công cụ. Hiện, nhiều trường phổ thông thiếu đội ngũ chuyên trách, giáo viên hướng nghiệp chủ yếu là kiêm nhiệm, dẫn đến lúng túng, thiếu chuyên môn và chiều sâu trong tư vấn.

Cần khẩn trương xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cấp tốc và dài hạn, cấp chứng chỉ hành nghề hướng nghiệp. Đồng thời, khuyến khích giáo viên cập nhật công nghệ và các phương pháp tư vấn hiện đại để có thể trở thành người dẫn đường tin cậy cho học sinh.

Tiếp đó, xây dựng và triển khai hệ sinh thái hướng nghiệp số. Trong kỷ nguyên số hóa, việc tích hợp các công cụ như trắc nghiệm định hướng nghề nghiệp, nền tảng thông tin ngành nghề, bản đồ học nghề - việc làm và các kênh kết nối doanh nghiệp vào một hệ thống thống nhất là hoàn toàn khả thi và cần thiết.

Hệ sinh thái này sẽ cung cấp cho học sinh cái nhìn trực quan, đa chiều và thực tế về lộ trình nghề nghiệp, giúp các em đưa ra lựa chọn dựa trên hiểu biết và phân tích thay vì cảm tính. Trường Trung cấp Nguyễn Tất Thành đã thử nghiệm các nền tảng số và ghi nhận những thay đổi tích cực trong nhận thức của học sinh.

Cuối cùng, thúc đẩy liên kết “ba nhà”: Nhà trường - doanh nghiệp - phụ huynh. Phân luồng và hướng nghiệp không thể là câu chuyện riêng của ngành Giáo dục. Doanh nghiệp cần tham gia sớm hơn vào quá trình giáo dục, không chỉ với vai trò tiếp nhận thực tập sinh, mà còn đóng góp vào xây dựng chương trình đào tạo, chia sẻ thông tin về nhu cầu nhân lực thực tế và đồng hành trong các hoạt động trải nghiệm nghề nghiệp cho học sinh.

Về phía phụ huynh, cần được trang bị kiến thức và thông tin chính xác để trở thành người đồng hành, hỗ trợ con cái lựa chọn con đường phù hợp năng lực và sở thích, thay vì áp đặt theo quan niệm truyền thống hay định kiến xã hội.

Đặc biệt, phải có cơ chế tài chính đi kèm. Học sinh theo học nghề cần được tiếp cận dễ dàng với các nguồn hỗ trợ học phí, học bổng hoặc chính sách tín dụng ưu đãi.

“Thực tế, nhiều học sinh ở quận Gò Vấp (TPHCM) nhưng có hộ khẩu thường trú ở tỉnh lại phải về tỉnh làm hồ sơ và nhận kết quả hỗ trợ, gây tốn kém thời gian, chi phí và công sức. Điều này đặc biệt quan trọng đối với học sinh vùng sâu, xa - nơi sự hỗ trợ kịp thời có thể là yếu tố quyết định giúp các em có cơ hội học nghề, thoát nghèo và xây dựng tương lai”, ông Mai Hoàng Lộc nhấn mạnh.

tao-da-tu-chinh-sach-6.jpg
Học sinh Trường THPT Mỹ Tho (Nam Định) trong một hoạt động tư vấn hướng nghiệp tại trường. Ảnh: Đình Tuệ

Hiểu đúng và truyền thông hiệu quả

Theo quan điểm của ThS Lê Thiên Huy - quyền Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Hoa Sen (Quận 12, TPHCM), công tác hướng nghiệp được ngành Giáo dục quan tâm từ lâu, với sự chỉ đạo cụ thể từ Bộ GD&ĐT, thể hiện qua việc đưa môn học hướng nghiệp vào chương trình phổ thông. Mục tiêu là giúp học sinh tự đánh giá bản thân, nhận diện xu hướng nghề nghiệp để có lựa chọn phù hợp.

Tuy nhiên, khi nhìn vào thực trạng triển khai giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt cho học sinh tốt nghiệp THCS, ông Huy chỉ ra sự khác biệt rõ rệt giữa các khu vực. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Cần Thơ, Đà Nẵng, công tác hướng nghiệp cho nhóm này được đầu tư mạnh mẽ và bài bản; nhiều trường, kể cả trường ngoài công lập, có bộ phận hướng nghiệp chuyên trách.

Ngược lại, ở các tỉnh lẻ, vùng sâu xa, công tác này còn hời hợt, chưa chạm đến cốt lõi vấn đề. Nhận thức của học sinh, người dân nhiều hạn chế, phổ biến quan niệm học nghề chỉ dành cho những em học lực yếu, cá tính “đặc biệt”, không đủ khả năng vào lớp 10 công lập hoặc gia đình khó khăn. Đây là cách hiểu sai lệch so với chủ trương đúng đắn của Nhà nước.

Ông Huy phân tích rõ hơn về các lựa chọn cho học sinh sau THCS theo chủ trương của Nhà nước: Thi vào THPT công lập; nghỉ học đi làm; tham gia học giáo dục nghề nghiệp. Trong đó, lựa chọn thứ ba là hướng đi ưu việt, kết hợp học văn hóa theo chương trình giáo dục thường xuyên rút gọn 7 môn và học nghề.

Chính sách này hấp dẫn khi học sinh chỉ đóng học phí phần văn hóa (một khoản nhỏ nếu học ở trung tâm giáo dục thường xuyên hoặc theo quy định trường ngoài công lập), còn chi phí học nghề được Nhà nước cấp bù học phí lên đến 100% theo Nghị định 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ và Nghị định 97/2023/NĐ-CP ngày 31/12/2023 sửa đổi, bổ sung của Chính phủ.

Lộ trình học tập hiệu quả: Lớp 10 học 7 môn văn hóa giáo dục thường xuyên; lớp 11 kết hợp học văn hóa và học nghề, cuối năm có thể nhận bằng trung cấp nghề; lớp 12 tập trung học văn hóa để hoàn thành chương trình THPT. Đây là chương trình thiết thực, giúp học sinh vừa có kiến thức văn hóa nền tảng, vừa sớm có tay nghề vững vàng.

Để chính sách này thực sự phát huy hiệu quả, đặc biệt ở vùng sâu xa, ông Lê Thiên Huy nhấn mạnh sự cần thiết phải làm cho học sinh và người dân hiểu rõ đây là chính sách tốt, tạo điều kiện kết hợp học văn hóa và có nghề nghiệp ổn định.

Muốn vậy, định hướng ngành nghề cần gắn liền với nhu cầu thực tế và tiềm năng phát triển của địa phương để sau khi tốt nghiệp, các em có thể làm việc ngay tại quê hương, đóng góp vào kinh tế địa phương, đúng theo chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc gắn học tập với thực tiễn lao động sản xuất.

Chính sách phân luồng học sinh sau THCS vào giáo dục nghề nghiệp là đúng đắn và mang lại nhiều lợi ích. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả hơn cần giải pháp đồng bộ, nhất là thay đổi nhận thức và đầu tư mạnh mẽ hơn cho công tác hướng nghiệp tại các vùng khó khăn.

Ông Lê Thiên Huy cho biết: Điều cốt yếu là phải nâng cao nhận thức, tập huấn kỹ lưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục để hiểu đúng và truyền thông hiệu quả về tính ưu việt của chương trình giáo dục nghề nghiệp sau THCS. Đồng thời, phát triển, đào tạo đội ngũ cán bộ hướng nghiệp chuyên biệt, chuyên trách hoặc kiêm nhiệm để triển khai công tác này bài bản và sâu rộng hơn.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Ngồi liên tục nhiều ngày trên tàu xe biến Gen Z thành 'mông thép'. Ảnh: Edition.cnn.com

Độc đáo trào lưu 'mông thép' của Gen Z

GD&TĐ - Khi hầu hết mọi người du lịch xa sẽ chọn máy bay làm phương tiện di chuyển cho nhanh thì Gen Z Trung Quốc lại đang đua nhau đi xe buýt và tàu hỏa.