Tuy là làng chiêm trũng nhỏ bé nhưng thời phong kiến, Nguyệt Áng nổi danh là làng khoa bảng với 11 người đỗ đại khoa, gồm 1 Trạng nguyên, 1 Thám hoa, 9 tiến sĩ, 29 người đỗ trung khoa (hương cống, cử nhân) và rất nhiều sinh đồ, tú tài.
Cứ 19 năm có 1 người đỗ
Theo các nguồn sử liệu đăng khoa, làng Nguyệt Áng, xã Đại Áng (Thanh Trì, Hà Nội), là nơi có truyền thống hiếu học, sản sinh ra nhiều nhân tài có công lớn với đất nước. Cùng với Tả Thanh Oai, Nguyệt Áng là ngôi làng khoa bảng thứ 2 ở huyện Thanh Trì.
Theo tư liệu khảo cổ, Nguyệt Áng là làng cổ có quá trình định cư hàng nghìn năm về trước. Năm 1993, người dân đã đào được một mộ thuyền với nhiều đồ tùy táng, xác định niên đại cách ngày nay khoảng 2.400 – 2.500 năm (thuộc văn hóa Đông Sơn).
Là nơi cách kinh thành Thăng Long xưa không xa, lại có truyền thống hiếu học nên dưới các triều đại phong kiến, Nguyệt Áng đã sản sinh nhiều nhân tài. Người đầu tiên đỗ đại khoa là Nguyễn Danh Thự (Thọ) đỗ tiến sĩ năm 1631 khi mới 29 tuổi.
Người thứ hai là Nguyễn Đình Trụ (1627 - 1703). Sau khi về hưu, ông về mở trường dạy học, học trò đông tới hàng nghìn. Hơn 70 người sau đó đỗ tiến sĩ và hương cống, thành đạt trên đường hoạn lộ. Thời bấy giờ coi ông là một “công phái thầy học”.
Người cuối cùng là Lưu Quỹ (1811 - ?) nổi tiếng thẳng thắn, dám tâu việc can ngăn vua nên bị giáng chức. Tháng 2 năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi, Lưu Quỹ đã cùng Khoa đạo Nguyễn Bỉnh Đức dâng sớ khuyên vua lưu ý đến 10 điều sách lược trị nước. Trong đó, 2 điều được vua tâm đắc nhất là “thận trọng trong sự ham chuộng” và “cẩn thận trong dùng người”.
Tính từ người khai khoa của làng là Nguyễn Danh Thự (đỗ năm 1631) cho đến người cuối cùng của làng là Lưu Quỹ (đỗ năm 1835) trải qua 204 năm với 11 tiến sĩ. Trong đó chỉ có một người đỗ vào triều Nguyễn, còn lại 10 người đỗ vào thời Lê - Trịnh.
Tính trung bình cứ khoảng 19 năm Nguyệt Áng lại có một người vinh quy bái tổ, mũ áo cân đai về làng. Tuy nhiên ở một số khoa thi, người Nguyệt Áng đỗ liền nhau (cứ 3 năm lại có người đỗ) như: Nguyễn Đình Trụ (đỗ năm 1656), Nguyễn Quốc Trinh (1659), Nguyễn Xuân Đài (1697), Nguyễn Đình Úc (1700), Lưu Tiệp (1772), Lưu Định (1775).
Về tuổi đỗ của những nhà khoa bảng Nguyệt Áng, họ ghi tên bảng vàng khi còn rất trẻ. Chỉ có 3 người quá tuổi 30 (cao tuổi nhất đỗ năm 35 tuổi). Ba người đỗ tiến sĩ ở tuổi 25 là Nguyễn Đình Bách, Nguyễn Đình Úc và Lưu Quỹ.
Khi khảo sát khoa bảng Nguyệt Áng, các nhà khoa học quan tâm đến truyền thống khoa bảng trong gia đình và dòng họ. Hai họ Nguyễn và Lưu tiêu biểu cho truyền thống khoa bảng. Nguyễn Đình Trụ đỗ tiến sĩ năm 1656, con của ông là Nguyễn Đình Bách đỗ năm 1683, em của Nguyễn Đình Trụ là Nguyễn Đình Úc đỗ năm 1700.
Có thể nói, Nguyệt Áng là làng có truyền thống khoa bảng đặc biệt nở rộ vào thế kỷ 17 – 18. Tuy nhiên, đến thời nhà Nguyễn thì khoa cử làng Nguyệt không phát đạt nữa. Điều này được xác định là sự “đứt gãy” giống rất nhiều làng khoa bảng ở nước ta.
Lưỡng quốc danh thần
Sự học của các vị đại khoa làng Nguyệt Áng đến nay vẫn còn được lưu truyền khá rộng rãi. Theo giai thoại mà làng kể lại, xét theo sự nghiệp học tập của các Trạng nguyên trong nước thời đó, Nguyễn Quốc Trinh là người đi học muộn nhất.
Là người chăm học nhưng cũng ham chơi, một hôm chị Nguyễn Quốc Trinh đến nhà thầy đồ thăm em, khi đi qua đê thì thấy em không học mà đang chơi diều ở ngoài đồng. Bà chị liền lôi cậu em vào trình với thầy.
Thầy giáo nghiêm nghị nói: “Tội anh đáng phạt đòn. Nhân tiện có chị anh sang đây, ta cũng muốn để gia đình biết được sức học của anh. Nay thầy ra một vế đối, nếu anh đối được thì tha, đối không được ta sẽ đuổi về”.
Nói rồi thầy đọc: “Bất học, hiếu du, vi tỉ giáo (Mê chơi, chẳng học, quên lời chị). Nguyễn Quốc Trinh không cần nghĩ ngợi, đối ngay: “Đăng khoa, cập đệ, trọng sư danh (Thi đỗ, cao khoa, nức tiếng thầy)”. Câu đối đó làm cả thầy và chị gái Nguyễn Quốc Trinh hài lòng, vui vẻ. Sau vụ này, thầy còn nuôi cho hai anh em Nguyễn Quốc Trinh ăn học.
Khoa thi năm Bính Thân (1656) đời Lê Thần Tông, Nguyễn Quốc Trinh cùng em trai là Nguyễn Đình Trụ về kinh ứng thí, tranh khôi đoạt giáp. Khi đang làm bài, trong đề mục có một đoạn Nguyễn Quốc Trinh quên mất, không làm được. Em trai ông ở lều thi cạnh định đọc cho ông chép nhưng Quốc Trinh thẳng thừng từ chối: “Từ xưa đến nay chưa có người nào đi xin chữ mà có thể tranh Trạng nguyên”.
Vào thời nhà Lê, Tây vương Trịnh Tạc muốn thử xem lòng người có phục mình không và sai quân lính đắp một cái đài ở Thăng Long đặt tên là đài Thu Thiên. Trịnh Tạc cùng một số đại thần đến tận nơi xem xét và quay sang hỏi: “Thế nào, ý ông ra sao?”.
Nguyễn Quốc Trinh trả lời: “Khải chúa thượng, việc xây đài dựng cột, làm thế nào chẳng được, nhưng như thế này khiến lòng thiên hạ không vui”.
Chúa giận tái mặt: “Thiên hạ trăm nghìn người, mỗi người một ý, một mình ông làm sao biết được trăm nghìn bụng?”. Nguyễn Quốc Trinh bình thản: “Thiên hạ là tôi đây, lòng tôi không vui thì biết lòng thiên hạ”. Chúa nín lặng, không nói gì lên kiệu về cung. Tối hôm ấy, một cơn bão nổi lên, sét đánh gãy mấy cây cột dài. Trịnh Tạc đành bỏ, không cho dựng nữa.
Năm Đinh Mùi (1667), Quốc Trinh được triều đình phong làm Chánh sứ dẫn đoàn sứ bộ sang nhà Thanh. Vua Khang Hy có lệnh triệu Quốc Trinh vào điện thử tài. Khi ông đến thì thấy có cả sứ thần Cao Ly, vua Thanh sai người mang ra hai chiếc thẻ tre nói: “Hai sứ thần hãy viết tên 100 danh thần của Trung Quốc vào chiếc thẻ, ai viết xong trước sẽ được phong là Lưỡng quốc danh thần, bằng không chỉ là Độn thần.
Sứ thần Cao Ly chăm chú mài mực viết còn Quốc Trinh vẫn ngồi im lặng tỏ vẻ suy nghĩ nhưng mãi không viết được chữ nào. Khi thời hạn nộp thẻ sắp hết, sứ thần Cao Ly cũng sắp hoàn thành phần thi của mình, lúc đó Quốc Trinh mới viết hai dòng chữ lên thẻ tre rồi buông bút.
Vua Khang Hy cầm đọc, thấy viết rằng: “Khổng môn thất thập nhị hiền/Vân Đài nhị thập bát tướng”. Khang Hy tấm tắc khen ngợi tài năng rồi phán: “Sứ thần nước Nam rất xứng đáng là Lưỡng quốc danh thần”.
Báu vật văn chỉ làng Nguyệt
Không chỉ nổi danh đất học, Nguyệt Áng còn có hệ thống văn chỉ tương đối quy mô và bài bản. Văn chỉ ở bên trái đình Nguyệt, hiện vẫn còn rất nguyên vẹn.
Ông Nguyễn Ngọc Hùng, Thủ từ đình Nguyệt, cho biết, người làng từ xưa tới nay luôn coi trọng lịch sử và những giá trị tiền nhân để lại. Bởi vậy, các di tích cha ông để lại luôn được gìn giữ rất cẩn thận và coi như báu vật.
Được biết, văn chỉ làng Nguyệt do Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh lập năm 1667, trước khi ông đi sứ Trung Quốc. Tại đây còn 2 tấm bia đá ghi tên những người đỗ đạt trong làng.
Ở “Từ vũ bia ký” hai mặt, chữ khắc chân phương rất rõ và đẹp mắt. Bia dựng năm Cảnh Trị thứ 5, ghi: “Bồi tụng hữu thị lang bộ hình Nguyễn Quốc Khôi cùng em trai là tiến sĩ Đình Trụ và Hội tư văn hàng giáp dựng văn chỉ, để làm nơi tế lễ các vị tiên hiền ở bản xã và biểu thị lòng tôn trọng đạo Nho cũng như sự chấn hưng văn phong vậy”.
Tấm bia thứ hai là “Đăng khoa thực lục” tóm tắt lai lịch của hai vị tiến sĩ là Nguyễn Danh Thự (Thọ) đỗ khoa Tân Mùi 1631, và Nguyễn Đình Trụ đỗ khoa Bính Thân 1656. Bia này cho biết, Nguyễn Danh Thọ là người đỗ đạt cao đầu tiên của dòng họ Nguyễn ở Nguyệt Áng và Nguyễn Đình Trụ là người tiếp theo.
Bia “Khôi nguyên huân nghiệp” hai mặt, ghi việc học hành và đỗ đạt của ba vị: Nguyễn Quốc Trinh, Nguyễn Đình Bách và Nguyễn Xuân Đài.
Về Nguyễn Đình Bách và Nguyễn Xuân Đài văn bia không có gì khác với các tài liệu đăng khoa lục, nhưng về Nguyễn Quốc Trinh thì có nhiều chi tiết đáng chú ý khi tìm hiểu vị Trạng nguyên này.