Trong những năm 1939-1945, khi chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra, thực dân Pháp và phát xít Nhật đã tăng cường áp bức bóc lột nhân dân ta. Chính sách tàn bạo đó đã khiến cho gần 2 triệu đồng bào ta chết đói.
Trong tình cảm bi thương của dân tộc, Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân cả nước nổi dậy giành chính quyền. Mùa thu năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Quá trình đó diễn ra như thế nào? Đó là nội dung của chủ đề ôn tập Phong trào giải phóng dân tộc và khởi nghĩa Tháng Tám (1939-1945), nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời.
Phong trào giải phóng dân tộc
Trước hết, học sinh cần nắm vững các nội dung lý thuyết. Đầu tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nước Pháp tham chiến. Thực dân Pháp ở Đông Dương đã tăng cường vơ vét bóc lột dể bước vào cuộc chiến tranh. Khi Chiến tranh Thế giới thứ 2 nổ ra, nước Pháp đã đầu hàng phát xít Đức.
Tháng 9/1940, quân Pháp nhanh chóng đầu hàng Phát xít Nhật khi chúng tiến vào Đông Dương. Khi chiếm được Đông Dương, Nhật đã giữ nguyên bộ máy chính quyền của thực dân Pháp và ra sức tuyên truyền về sức mạnh nền văn minh Nhật Bản.
Năm 1941, Phát xít Đức tấn công Liên Xô. Nhân dân Liên Xô bước vào cuộc kháng chiến vĩ đại để bảo vệ Tổ quốc. Cuộc chiến đấu này đã cổ vũ nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh.
Năm 1945, Phát xít Đức, Ý, Nhật thất bại nặng nề. Ở Đông Dương, ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp. Lợi dụng cơ hội đó, các đảng phái chính trị ở Việt Nam tăng cường hoạt động; quần chúng nhân dân sục sôi khí thế, sẵn sàng vùng lên khởi nghĩa.
Tháng 11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Bà Điểm (Hóc Môn) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, xác định nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc ở Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Chủ trương của Đảng là tạm gác lại khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ, phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu: thay “Thành lập chính quyền Xô Viết công nông binh” bằng khẩu hiệu “Chính phủ dân chủ cộng hòa”.
Về phương pháp đấu tranh, Đảng chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật. Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 họp tại Pác Bó (Hà Quảng - Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
Hội nghị khẳng định: Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là giải phóng dân tộc. Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm thuế chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Hình thức khởi nghĩa đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945
Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang. Điều kiện khách quan cho tổng khởi nghĩa đã đến.
Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ban bố “Quân lệnh số 1”, phát lệnh khởi nghĩa trong cả nước. Ngày 14 - 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định quyết định những chính sách đối nội và đối ngoại sau khi giành chính quyền.
Ngày 16-17/8/1945, Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào, tán thành chủ trương khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Giữa tháng 8/1945, khí thế cách mạng trong cả nước sục sôi. Ngày 14/8, một số cấp bộ Đảng và tổ chức Việt đã phát động nhân dân khởi nghĩa, nổ ra ở nhiều xã, huyện các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng.
Chiều 16/8/945, Võ Nguyên Giáp chỉ huy đơn vị Giải phóng quân tiến đánh giải phóng thị xã Thái Nguyên. Ngày 18/8/1945, Bắc Giang, Hải Dương. Hà Tĩnh, Quảng Nam, giành được chính quyền.
Tại Hà Nội, ngày 17/8 quần chúng tổ chức mít tinh tại Nhà hát Lớn với khẩu hiệu "Ủng hộ Việt Minh!", "Đả đảo bù nhìn!", "Việt Nam độc lập!" Ngày 18/8, cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên các đường phố chính của Hà Nội.
Ngày 19/8/1945, hàng vạn nhân dân xuống đường biểu dương lực lượng. Quần chúng cách mạng, các đội tự vệ chiến đấu lần lượt chiếm Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở cảnh sát Trung ương, Sở Bưu điện... Tối 19/8/1945, cuộc khởi nghĩa thắng lợi.
Ngày 23/8/1945, giành chính quyền ở Huế. Ngày 25/8/1945, giành chính quyền ở Sài Gòn. Ngày 28/8/1945, giành được chính quyền trong cả nước. Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là những địa điểm giành chính quyền muộn nhất. Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ hoàn toàn.
Thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước hàng vạn nhân dân thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: "Pháp chạy, Nhật Hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập". Cuối bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định ý chí sắt đá: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập tự do ấy".
Cách mạng Tháng Tám đã mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, phá tan xiềng xích của Pháp hơn 80 năm và Nhật gần 5 năm, lật đổ chế độ phong kiến tồn tại ngót một ngàn năm, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động lên nắm chính quyền, làm chủ đất nước...
Trong bài học này, học sinh cần nắm những nội dung: Tình hình nước ta trong những năm 1939 - 1945; Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương 11/1939; Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương 5/1941; Quá trình chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền; Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền; Sự thành lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và bản Tuyên ngôn độc lập.
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Lịch sử 12 để nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.