Bê bối hộ chiếu
Năm 2010, một vụ bê bối quốc tế đã nổ ra khi người ta phát hiện rằng Mossad đã sử dụng 3 hộ chiếu Australia giả để tới Dubai và ám sát lãnh đạo Mahmoud al-Mabhouh của Hamas. Cựu nhân viên Mossad Victor Ostrovsky cho biết đây là một hoạt động khá phổ biến của tổ chức này: “Muốn nói gì thì nói, sự thật là chẳng có gì khó khăn để nói với giọng Australia, New Zealand hay Anh. Bản thân tôi cũng biết các điệp viên Mossad đã sử dụng vỏ bọc người Australia không dưới vài lần. Đây cũng chỉ là thêm một lần như vậy mà thôi”.
Các nhà chức trách Australia đã cảnh báo Israel rằng cách ứng xử như vậy sẽ làm tổn hại mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Anh, Ireland, Pháp và Đức cũng đều nổi giận khi những kẻ có liên quan đến vụ ám sát đã sử dụng hộ chiếu của họ.
Theo Ostrovsky, Mossad đã chi một khoản tiền lớn cho một phòng nghiên cứu về giấy tờ giả, với cơ sở sản xuất chuyên “nhào nặn” các loại giấy tờ này dựa trên những cuốn hộ chiếu trắng hoặc ăn cắp được từ các nước phương Tây. Điều này cho phép các điệp viên Mossad tiếp tục được ẩn danh ở các nước Arab, nơi mà bất kỳ ai cầm cuốn hộ chiếu Israel cũng đều bị nghi ngờ.
Không đáng ngạc nhiên khi Mossad phủ nhận những gì Ostrovsky nói. Năm 2011, một vụ bê bối tương tự lại diễn ra. Ostrovsky đã cảnh báo rằng có 6 công dân mang hộ chiếu đôi Anh – Israel đã bị mất hộ chiếu và Mossad đã sử dụng hộ chiếu của họ khiến những người này không thể ra nước ngoài, thậm chí không dám rời khỏi địa phương, vì lo ngại Hamas sẽ trả đũa.
Chiến dịch Plumbat
Cùng với vụ đánh cắp vật liệu hạt nhân NUMEC, chương trình hạt nhân của Israel luôn được củng cố bởi các chiến dịch lấy cắp tương tự của Mossad, bao gồm cả những vụ thật và giả. Trong một vụ việc đầy tai tiếng, Mossas đã thiết lập một công ty bình phong Liberia để mua một tàu biển chở hàng mà họ đổi tên thành Scheerberg A.
Sau đó, họ tranh thủ một quan chức Tây Đức tại một công ty hóa dầu để giúp họ mua 3,7 triệu đô la từ công ty Union Miniere của Bỉ. Công ty đã khai thác uranium vài năm trước tại Shinkolobwe ở Congo và đang tìm cách loại bỏ khối lượng hàng hóa này.
Một hợp đồng đã được thiết lập để giao hàng cho một công ty sơn Italia để xử lý. Vào tháng 11/1968, Scheerberg A được gửi đến Antwerp (Bỉ), nơi uranium được đặt trong các thùng có nhãn Plumbat, có nghĩa là một sản phẩm chì vô hại. Thủy thủ đoàn Tây Ban Nha của con tàu đã bị sa thải và thay thế bằng các đặc vụ Mossad với hộ chiếu giả mạo.
Con tàu có vẻ như đang hướng đến Genova (Italia), nhưng thay vào đó, con tàu đã hẹn gặp một máy bay chở hàng của Israel và hai pháo hạm ngoài khơi đảo Crete. Uranium được chuyển đến các tàu đang chờ và đưa đến Haifa. Sau đó, tàu Scheerberg A đã tới Thổ Nhĩ Kỳ mà không có hàng hóa. Nhật ký hàng hải của con tàu có một vài trang bị xé. Công ty Italia được yêu cầu hủy đơn đặt hàng vì hàng hóa đã biến mất mà không có lời giải thích. Những giả thiết được tung ra là do cướp biển hoặc không tặc. Cho đến những năm 1970, sự thật mới được tiết lộ.
Theo các nguồn khác, Mossad cũng tham gia nhiều phi vụ chiếm đoạt hạt nhân khác. Có hai hoạt động xảy ra với sự hợp tác của chính phủ Pháp và Tây Đức.
Trong một sự cố năm 1968, một đơn vị đặc công đã sử dụng hơi cay để vô hiệu hóa người lái chiếc xe tải Pháp vận chuyển uranium. Hàng hóa được nhập lậu đến các căn cứ quân sự ở Negev, một vùng sa mạc ở Israel. Trong khi đó, một cuộc điều tra ở Mỹ cho thấy ít nhất 1 tấn uranium và plutonium đã bị mất giữa những năm 1950 và 1970, bao gồm một lượng đáng kể từ nhà máy ở Irvine, Tennessee (Mỹ). (Còn tiếp)