Nhà khoa học Việt chế thuốc chữa tiểu đường từ cây thài lài trắng

GD&TĐ - Nghiên cứu về cây dược liệu lâu năm, PGS.TS Vũ Đức Lợi thấy Việt Nam có nhiều cây thuốc tiềm năng để phát triển thành sản phẩm trị đái tháo đường.

Thuốc trị đái tháo đường tuyp 2 từ cây thài lài trắng.
Thuốc trị đái tháo đường tuyp 2 từ cây thài lài trắng.

Nhận thấy ở Việt Nam có rất nhiều loài dược liệu chứa hoạt chất tốt cho bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) tuyp 2, PGS.TS Vũ Đức Lợi và cộng sự Trường Đại học Y Dược, ĐHQGHN đã nghiên cứu phát triển thành thuốc.

Nghiên cứu thuốc từ cây dược liệu

ĐTĐ tuyp 2 là một bệnh khá phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ người bị ĐTĐ tuyp 2 chiếm khoảng gần 6 - 8% dân số. Việt Nam có khoảng hơn 4 triệu người bị bệnh này. Hiện nay, số lượng thuốc cung cấp trên thị trường Việt Nam chủ yếu vẫn phải nhập khẩu của nước ngoài trong khi nhu cầu trong nước rất lớn.

Nghiên cứu về cây dược liệu lâu năm, PGS.TS Vũ Đức Lợi nhận thấy Việt Nam có nhiều cây thuốc tiềm năng để phát triển thành sản phẩm trị ĐTĐ. Theo kinh nghiệm dân gian, một số cây thuốc được nhân dân ta sử dụng từ lâu với mục đích trị bệnh ĐTĐ tuyp 2 như mã đề, quế, lá dứa, sinh địa, sầu đâu, xoài, vối, lược vàng, nở ngày, khổ qua, qua lâu, mạch môn...

Nhóm cây thuốc này có nhiều nơi ở Việt Nam như tại các tỉnh: Lào Cai, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Nam Định, Quảng Bình, Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thái Bình, Ninh Bình... Các cây thuốc có khả năng thích nghi cao với điều kiện khí hậu thổ nhưỡng và dễ sinh trưởng phát triển, lại cho thu hoạch nhanh.

Nhóm nghiên cứu của TS Lợi được Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ ĐHQGHN tài trợ triển khai đề tài “Nghiên cứu phát triển sản phẩm theo hướng hỗ trợ điều trị bệnh ĐTĐ tuyp 2 từ nguồn cây thuốc ở Việt Nam”.

Nhóm nghiên cứu đã xác định 8 loài cây để nghiên cứu sàng lọc khả năng ức chế enzyme α-amylase, α-glucosidase và protein tyrosine phosphatse 1B đó là: Cây xoài (Mangifera indica L.), cam thảo đất (Seoparia dulics L.), chặc chìu (Tetracera scandens (L.) Merr.), húng quế (Ocimum basilicum.), cây dứa thơm (Pandanus amaryllifolius), qua lâu trứng (Trichosanthes ovigera Blume), dâu tằm (Morus alba L.), thài lài trắng (Commelina Diffusa Burm. F.).

Các mẫu dược liệu khô được chiết với dung môi ethanol 70% để thu các cao toàn phần. Các cao này sẽ được tiến hành đánh giá khả năng ức chế enzyme α-amylase, α-glucosidase và protein tyrosine phosphatse 1B.

PGS.TS Vũ Đức Lợi cho biết, nghiên cứu đã lựa chọn cây thài lài trắng là loài khá phổ biến, dễ trồng cấy, thu hái quanh năm và có kết quả ức chế enzyme α-amylase, α-glucosidase và protein tyrosine phosphatse 1B tương đối tốt để tiếp tục nghiên cứu.

Dạng bào chế tiện sử dụng

Cây thài lài trắng còn có tên là cỏ lài trắng, rau trai... là loại cây thảo mọc bò, có rễ ở các mấu, gần như không lông. Thài lài trắng mọc nhiều ở nơi đất ẩm, ruộng vườn bãi hoang.

Người ta lấy toàn cây quanh năm để làm thuốc. Ở một số nơi, người ta hái ngọn non để luộc hoặc nấu canh. Theo Đông y, thài lài trắng có tính hàn, vị ngọt nhạt; có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, lợi thủy, tiêu thũng.

Từ phần trên mặt đất cây thài lài trắng, nhóm nghiên cứu đã chiết phân lập được các phân đoạn dịch chiết và 10 hợp chất. Sau đó, xây dựng thành công quy trình chiết xuất tạo cao khô dược liệu thài lài trắng, bào chế 2 sản phẩm viên nang và trà cốm hòa tan.

Nhóm nghiên cứu đã xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho dược liệu, cao dược liệu, sản phẩm viên nang, trà cốm hòa tan và lập hồ sơ để đăng ký với Bộ Y tế.

“Một số sản phẩm được bào chế dưới dạng viên nang cứng và trà gói hòa tan với nguyên liệu chính từ cây thuốc đã được nghiên cứu trong đề tài. Đây là dạng bào chế tiện sử dụng, giá thành phù hợp, dễ bảo quản và bảo quản được lâu”, PGS.TS Vũ Đức Lợi cho biết.

Sau khi được nghiệm thu, có thể xem xét xin ý kiến các cơ quan quản lý để có thể chuyển giao cho doanh nghiệp có nhu cầu đưa sản phẩm vào phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe, triển khai sản phẩm ở quy mô công nghiệp.

Tại Việt Nam, các cây thuốc có nhiều và lại dễ trồng, trong khi chưa có nghiên cứu toàn diện (hóa học, sinh học, dược học), đặc biệt nghiên cứu theo hướng tạo nguồn nguyên liệu (dược liệu, cao dược liệu...) để bào chế sản phẩm hỗ trợ điều trị bệnh ĐTĐ tuyp 2. Do đó, theo PGS.TS Vũ Đức Lợi, cần có nghiên cứu, sàng lọc, lựa chọn các cây thuốc theo hướng điều trị ĐTĐ, nhằm phát triển nguồn nguyên liệu theo hướng bào chế sản phẩm.

TS Lợi cho biết, ngành dược nước ta đã đặt ra mục tiêu phát triển các nguồn nguyên liệu làm thuốc để phấn đấu thuốc sản xuất trong nước chiếm khoảng 60% tổng lượng thuốc của Việt Nam cần sử dụng mỗi năm.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ