Nhà giáo Đỗ Minh Thiêm cả đời gắn bó với sự học và sáng tạo

0:00 / 0:00
0:00

GD&TĐ - Những năm 60 ở làng chúng tôi đã có nhiều thầy cô giáo nhưng giáo viên dạy cấp II như thầy giáo Đỗ Minh Thiêm thì ít lắm.

Thầy Đỗ Minh Thiêm và tác giả - Thiếu tướng Phạm Tiến Luật.
Thầy Đỗ Minh Thiêm và tác giả - Thiếu tướng Phạm Tiến Luật.

Thầy Thiêm là thế hệ giáo viên được đào tạo theo lời căn dặn của Bác Hồ với Bộ trưởng Đại học và THCN Tạ Quang Bửu: “Chú phải đem chữ của chú để “sẻ” cho dân”.

Cả cuộc đời của thầy gắn bó với giáo dục, trong đó gần 30 năm chủ nhiệm lớp học sinh giỏi (HSG) Văn của huyện, trực tiếp đào tạo, tuyển chọn học sinh dự thi HSG miền Bắc và toàn quốc.

Tốt nghiệp Trường Phổ thông cấp III tỉnh Thái Bình khóa 2 (1956 - 1959), năm 1962 thầy Đỗ Minh Thiêm học đào tạo giáo viên (lớp 10 + 1) ở thành phố Nam Định. Từ năm 1963 thầy được cử về dạy ở các trường cấp II trong huyện Kiến Xương (Thái Bình).

Là giáo viên dạy văn phổ thông, thầy được Phòng Giáo dục Kiến Xương và Ty Giáo dục Thái Bình điều động dạy chuyên văn cho HSG với thâm niên gần 30 năm chủ nhiệm lớp giỏi văn của huyện, tuyển chọn HSG dự thi giải miền Bắc và toàn quốc.

Ngày ấy, kinh tế khó khăn, vật chất thiếu thốn, các thầy phải xuống từng địa phương xin điều hoà lương thực, tạo điều kiện cho các cháu ăn ở tập trung, duy trì việc học. Thầy cùng các thầy Trần Xuân Riến, Nguyễn Xuân Thanh, Đặng Nguyên Hồng, Phạm Đức Nhật... thường đạp xe xuống từng gia đình động viên học trò học tập.

Quá trình dạy học của thầy Thiêm đã có nhiều sáng tạo, để lại ấn tượng sâu sắc cho đồng nghiệp và học trò. Những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước hầu hết dạy văn theo kiểu: Diễn xuôi thơ, văn là quy nạp, tóm tắt tác phẩm rồi liên hệ người thực, việc thực đẩy tới việc XHH văn chương.

Thế nhưng thầy luôn đi theo hướng khai thác từ nghệ thuật sang nội dung, giúp học sinh cảm thụ cái hay, cái đẹp của hình tượng nghệ thuật, những đóng góp sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Học sinh được cảm thụ văn chương đúng đặc trưng của bộ môn.

Hai học trò Bùi Thanh Huyền và Phạm Thị Yến đạt giải HSG Văn quốc gia năm 1978 nhớ lại: Khi dạy “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, thầy phân tích kỹ từ “Bình” ở đầu bài để toát lên tư tưởng nhân nghĩa của tác giả, tác phẩm.

Cùng là nghĩa “Đánh”, trong Hán tự các từ: “bình, chinh, phạt” mỗi từ có sắc thái khác nhau: “Chinh” có nghĩa là đem quân đi đánh nước người, đánh bằng quân sự; “Phạt” nghĩa là đánh đối phương bằng vũ khí, vũ lực; còn dùng chữ “Bình” là đánh nhưng nghiêng về đánh vào lòng người, đánh bằng lòng nhân nghĩa. Như vậy chọn từ “Bình” mà không dùng từ “Chinh” từ “Phạt”, nên Nguyễn Trãi đã khẳng định cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi nhờ vào tư tưởng: “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Lấy chí nhân thay cường bạo”.

Khi dạy bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, thầy Thiêm đã hướng dẫn học sinh so sánh sắc thái ý nghĩa của từ “Đế”. Trong nguyên bản “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư” với từ vua trong bản dịch “Sông núi nước Nam vua Nam ở” để khẳng định tinh thần độc lập tự chủ cùng niềm tự hào dân tộc cao vời vợi của Lý Thường Kiệt.

Hay khi dạy bài thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu, đoạn thơ viết về bốn mùa của Việt Bắc, thầy đặt ra vấn đề thứ tự của bộ tranh Tứ bình bằng thơ khác với thứ tự bộ tranh tứ quý thông thường. Tranh tứ quý thường xếp theo thứ tự Xuân - Hạ - Thu - Đông.

Còn trong thơ của Tố Hữu lại xếp từ Đông - Xuân - Hạ - Thu. Kết cấu như vậy đã biểu hiện sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ về quá trình kháng chiến chống Pháp: Rời Hà Nội ra đi kháng chiến vào mùa Đông, kết thúc kháng chiến, chia tay với Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô Hà Nội cũng vào mùa Đông.

Ngày ấy, dạy văn thường theo hướng đọc chép, học sinh bị động. Nhưng thấy Thiêm thì dạy khác: Hướng dẫn học sinh cảm thụ văn học qua hệ thống câu hỏi đàm thoại, câu hỏi phát hiện, câu hỏi giảng giải, câu hỏi đánh giá.

Cách dạy này đã giúp các em chủ động tiếp thu kiến thức, trở thành người đồng sáng tạo “Vấn đề trực quan sinh động là sự đóng góp sáng tạo của người dạy”. Đa số đồng nghiệp ghi bảng theo từng dòng thì thầy đã ghi bảng theo sơ đồ cành cây mà đến năm 2017 Bộ GD&ĐT mới phát động phong trào dạy học bằng bản đồ tư duy (MIND MAP).

Trong lần khảo sát chất lượng Dạy - Học. Năm 1969, chuyên gia cao cấp Bộ Giáo dục Trương Dĩnh nhận xét về thầy Đỗ Minh Thiêm với cán bộ Ty Giáo dục Thái Bình: “Đây là một giáo viên giỏi mà chúng tôi cần tìm”.

Hơn 40 năm dạy học thầy Thiêm đã có 35 năm được công nhận là giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh. Cùng với đồng nghiệp thầy đã đưa phong trào HSG của huyện Kiến Xương, của tỉnh Thái Bình lên thời “Hoàng kim”.

Lớp lớp HSG Văn đã trưởng thành. Có người đã anh dũng hy sinh trong công cuộc giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Có người làm lãnh đạo quản lý, ở viện nghiên cứu, nhà báo, nhà giáo và không ít người trở thành những chủ doanh nghiệp giỏi…, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

Bên chén trà thơm, chúng tôi khám phá thêm ở thầy một kho tàng tri thức phong phú nhờ vào sự tự học không ngừng nghỉ. Thầy theo học hàm thụ ĐH, có bằng Cử nhân do Bộ Giáo dục mở tại tỉnh Thái Bình. Thầy đã từng học Hán văn, Pháp văn năm (1970-1972) có bằng Trung cấp ở Trường Bổ túc Văn hóa của tỉnh Thái Bình.

Nay đã 85 tuổi thầy tự học xong: Tam thiên tự, Ngũ thiên tự, và hàng ngày vẫn học tiếp qua các câu đối, qua các bài thơ chữ Hán... Nhờ có kiến thức tự học thầy Thiêm là thế hệ thầy giáo vàng còn lại của làng tôi, góp phần khôi phục các công trình kiến trúc tâm linh như: Đình - Miếu làng và cổng làng.

Thầy còn cho chữ hoành phi, câu đối, viết chữ trên long cốt đảm bảo tính cổ điển của văn hóa truyền thống. Thầy giáo Thiêm luôn tự hào về quê hương làng xóm, thầy cũng rất tự hào về dòng họ Đỗ, tiêu biểu cho phong trào khuyến học tỉnh Thái Bình và dòng dõi gia phong “Thi, Lễ, Truyền Gia”.

Nhà giáo Đỗ Minh Thiêm xuất thân từ dòng nho bảng, nội ngoại đều là các bậc thầy. Vợ của thầy là cô giáo dạy văn Trần Thị Lệ Hằng. Vợ chồng thầy là đôi trai tài gái sắc, lớp lớp thế hệ học sinh và phụ huynh quý mến.

Những tháng hè thầy phụ đạo cho hàng trăm học sinh dự thi vào ĐH, chi “lẹm” cả tiền lương nhưng vợ không bao giờ ca thán. Người vợ xinh đẹp, đức hạnh, đảm đang, cả đời hy sinh cho chồng con bị bệnh hiểm nghèo mất đã mấy chục năm. Thầy sống một mình, sinh hoạt đạm bạc ở căn nhà nhỏ thân quen trên đất ông cha, luôn sạch sẽ, ngăn nắp như khi cô còn sống.

Ngắm đồ cổ gia tiên để lại, thầy Thiêm say sưa thuyết minh như một nhà sưu tầm có tri thức khảo cổ học. Chiếc nậm rượu đời Lý, bộ vị thuỷ: Thọ lồng Sen Le, Ngọc Thỏ Cung Trăng, đã được thầy giảng giải thổi hồn văn hóa vào từng đồ cổ với những câu chữ uyên thâm, như: “Sự phùng đắc ý tuyên hưu tức” hoặc “Vị thủy đầu can nhật, kỳ sơn nhập mộng thần”.

Có phải từ chữ “Nhẫn” ở chiếc đĩa cổ hàng ngày thầy chiêm nghiệm mà cả cuộc đời thầy có đức tính nhẫn nhịn. Thi đỗ vào Khoa Hoá hữu cơ Trường ĐH Bách khoa, thầy có người chú ruột là liệt sĩ Đỗ Đức Nhuận anh dũng hy sinh trong kháng chiến chống Pháp (1952) mà lại không được ghi trong hồ sơ tuyển sinh, phải cam chịu thiệt thòi không còn là sinh viên đại học và nhẫn nhịn để học tập vươn lên, nhẫn nhịn vì học sinh thân yêu… bỏ qua danh vọng và sự cám dỗ đời thường. '

Đấy cũng là tâm đức của người thầy như thầy đã giảng giải cho Hội Người cao tuổi ở Đình làng về “Ánh sáng văn hóa Phật pháp thể hiện trong từng nét của chữ “ PHẬT”

Kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam, Trung tướng Đỗ Phúc Hưng và tôi trân trọng đón mời các thầy, cô giáo cũ từ thời cấp I, cấp II đến nhà hàn huyên. Thầy Thiêm, thầy Bang, thầy Nhâm, thầy Khoa, thầy Ruyến, thầy Nam, cô Tích rất xúc động, tay bắt mặt mừng chuyện trò hoan hỷ.

Có thầy hóm hỉnh nói vui: “Ngành Giáo dục của Thái Bình còn nợ hai thầy giáo dạy Văn giỏi là Nguyễn Hải Đạm và Đỗ Minh Thiêm danh hiệu Nhà giáo Ưu tú”. Thầy Thiêm trầm ngâm suy nghĩ và tâm tư mong cho nền giáo dục Việt Nam có một chương trình mang tính hệ thống, cân đối giữa lý thuyết với thực hành… để đào tạo ra được lớp người chuyên sâu về kiến thức, giỏi về thực hành.

Bất chợt ánh mắt thầy Thiêm như sáng bừng sinh động, chia sẻ với chúng tôi và các bạn đồng nghiệp của thầy cùng các học sinh là PGS, Tiến sĩ được phong quân hàm cấp Tướng.

Giọng thầy truyền cảm ấm áp: “Tôi thiết nghĩ mọi người khi về hưu cũng không nên dừng việc học, mà nên coi việc học và việc đọc là việc làm suốt đời”. Thầy Thiêm như nhắc lại câu nói nổi tiếng của Lê-Nin: “Học, học nữa, học mãi” và mục đích học tập mà UNESCO đề ra: “Học để biết, học để làm, học để hoà nhập, học để tự khẳng định mình”.

Nhà giáo Đỗ Minh Thiêm xứng đáng là người thầy suốt đời gắn liền với “Sự học” và “sáng tạo”.

Thái Bình, ngày 1 tháng 10 năm 2023.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ