Nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon trong cỏ biển

GD&TĐ - Theo TS Cao Văn Lương (Viện Tài nguyên và Môi trường biển), cỏ biển là nhóm thực vật bậc cao có hoa duy nhất, sống trong môi trường biển và nước lợ.

Cỏ biển có thể hấp thụ carbon khổng lồ, đem lại giá trị kinh tế to lớn.
Cỏ biển có thể hấp thụ carbon khổng lồ, đem lại giá trị kinh tế to lớn.

Các nhà khoa học Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã nghiên cứu về khả năng hấp thụ carbon của các thảm cỏ biển tại Việt Nam.

Cỏ biển hấp thụ carbon cao hơn rừng

TS Cao Văn Lương, Viện Tài nguyên và Môi trường biển cho biết, cỏ biển (seagrasses) là nhóm thực vật bậc cao có hoa duy nhất, sống trong môi trường biển và nước lợ. Thảm cỏ biển (seagrass beds) là môi trường sống quan trọng của sinh vật thuỷ sinh ven bờ, đặc biệt đối với vùng biển ven bờ nhiệt đới.

Ngoài giá trị về mặt sinh thái, hệ sinh thái (HST) cỏ biển còn được ghi nhận với vai trò rất lớn trong điều chỉnh môi trường bởi khả năng lưu trữ lượng lớn carbon hữu cơ.

Theo ước tính, khả năng lưu trữ carbon hữu cơ của cỏ biển trên toàn cầu vào khoảng 19,9 tỷ tấn, cao hơn 2 - 3 lần so với rừng thường xanh tính trên cùng đơn vị diện tích. Tốc độ hấp thụ carbon nhanh hơn 35 lần so với rừng mưa nhiệt đới.

Mặc dù diện tích các thảm cỏ biển trên toàn cầu là không lớn (0,2% diện tích), nhưng đóng góp 10 - 18% vào lượng carbon hữu cơ trong hệ sinh thái biển, tích lũy trung bình đạt tới 48 - 112 triệu tấn/năm.

Bảo tồn và phát triển các thảm cỏ biển được xem là một giải pháp tự nhiên hỗ trợ các hoạt động nhằm giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu. Việt Nam có trên 3.260km bờ biển, hơn 50.000km2 lãnh hải, với hệ thực vật thuỷ sinh ven biển phong phú, được xem là hệ sinh thái carbon xanh khổng lồ.

Cỏ biển đã được công nhận có vai trò quan trọng trong việc hấp thụ và lưu trữ carbon. Tuy nhiên, những nghiên cứu về khả năng hấp thụ, lưu trữ carbon của các hệ sinh thái dưới nước, trong đó có hệ sinh thái cỏ biển ở Việt Nam còn hạn chế.

Trong các báo cáo kiểm kê quốc gia, cỏ biển vẫn chưa được quan tâm đúng mức so với các thảm thực vật trên cạn. Việc tính toán và xác định được trữ lượng carbon hữu cơ trong các thảm cỏ biển ven bờ sẽ góp phần bổ sung cơ sở khoa học quan trọng cho nỗ lực chung của Việt Nam nhằm giảm phát thải khí nhà kính, giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thực hiện đề tài “Nghiên cứu xác định trữ lượng carbon xanh trong các thảm cỏ biển ở vùng ven bờ Việt Nam”, nhóm nghiên cứu đặt mục tiêu xác định được trữ lượng carbon hữu cơ tại các thảm cỏ biển tiêu biểu ở một số vùng ven bờ Việt Nam và đề xuất các giải pháp quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững hệ sinh thái thảm cỏ biển ở vùng ven bờ Việt Nam.

Trữ lượng carbon có trị giá hàng chục triệu USD

Các nhà khoa học đã tổ chức khảo sát, đánh giá hiện trạng và biến động của các thảm cỏ biển tại 4 khu vực đại diện là Hà Dong (Quảng Ninh), Cửa Gianh (Quảng Bình), Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang). Nhóm xác định có tổng số 15 loài cỏ biển, phân bố trên tổng diện tích 21.885 ha ở khắp các vùng biển đảo ven bờ Việt Nam, nơi xa nhất tại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.

Tại 4 khu vực nghiên cứu, đã xác định được 10 loài cỏ biển phân bố trên tổng diện tích 8.623,4 ha. Hiện nay, hệ sinh thái cỏ biển có xu hướng suy giảm cả về số lượng thành phần loài, diện tích phân bố, độ phủ và sức khỏe.

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã xây dựng, cập nhật bổ sung 4 bản đồ phân bố chi tiết các thảm cỏ biển tại Hà Dong, Cửa Gianh, Vân Phong và Phú Quốc vào bộ cơ sở dữ liệu bản đồ, sơ đồ phân bố các thảm cỏ biển tại Việt Nam.

Trong đó, tổng trữ sinh khối khô tại 4 khu vực nghiên cứu đạt 67.097,4 tấn. Tổng trữ lượng carbon hữu cơ trong các thảm cỏ biển (sinh khối và trầm tích) tại 4 khu vực nghiên cứu đạt 346.032,6 tấn Corg (40,12 tấn Corg/ha).

Ước tính tổng trữ lượng carbon hữu cơ của các thảm cỏ biển Việt Nam đạt 878.026 tấn Corg, tương ứng 3.222.356 tấn CO2 hoặc 3.222.356 tín chỉ carbon. Qua nghiên cứu, TS Lương và cộng sự đã tính toán, lượng giá giá trị trữ lượng carbon hữu cơ trong các thảm cỏ biển tại Việt Nam tương đương với 64.447.123 đô la Mỹ.

TS Cao Văn Lương cho biết đây là những thành công bước đầu, kết quả nghiên cứu là những đánh giá tức thời trong 2 năm thực hiện, để có những kết quả chính xác hơn về hệ sinh thái cỏ biển, cần tiếp tục theo dõi, giám sát dài hạn, nghiên cứu, đánh giá dịch vụ các thảm cỏ biển trong tương lai.

Đồng thời, cần bổ sung nghiên cứu thông tin về thảm cỏ biển các khu vực biển, đảo ngoài khơi như một số quần đảo tại vịnh Thái Lan. Cuối cùng, cần có hành động cụ thể từ các đơn vị quản lý, các bên liên quan và các nhà hoạch định chính sách nhằm tăng cường sự quản lý và quan tâm hơn nữa đến các thảm cỏ biển ở Việt Nam.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Gió mạnh trong cơn bão gây đổ cây, tốc mái.

Khi nào bão thành 'thảm họa'?

GD&TĐ - Có nhiều nguyên nhân khiến một cơn bão trở nên nguy hiểm và gia tăng mức độ gây thiệt hại lên đời sống của con người.

Minh họa/INT

Không thể vì không quản lý được thì cấm!

GD&TĐ - Tình trạng quản không được hoặc khó quản là cấm và cấm được coi là giải pháp nhanh và hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề là thực tế đang tồn tại...