Mường Phăng (Điện Biên): Nơi ghi dấu quyết định khó khăn nhất của vị tổng chỉ huy

GD&TĐ - Dù Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đi xa, nhưng đất và người Mường Phăng luôn tự hào vì đã cùng với vị tổng chỉ huy trải qua những tháng ngày gian khổ, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm Châu.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các tướng lĩnh quân đội ta hoạch định kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ tháng 3/1954. Ảnh: tư liệu
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các tướng lĩnh quân đội ta hoạch định kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ tháng 3/1954. Ảnh: tư liệu

Trải qua 67 năm, Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn được gìn giữ, bảo tồn vẹn nguyên, là biểu tượng của đỉnh cao trí tuệ quân sự và khí phách anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.

“Tướng quân tại ngoại”

Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn ở phía Tây vùng núi Tây Bắc, có lòng chảo Mường Thanh dài gần 18km, nằm gần biên giới Việt – Lào. Đây là vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược vùng Đông Nam châu Á của thực dân Pháp.

Đánh giá về quyết định mang tính lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong dịp kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên, tướng Lê Trọng Tấn nói: “Nếu không có quyết định chuyển phương châm ngày đó thì phần lớn chúng tôi sẽ không có mặt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ”. 

Thực hiện mưu đồ đối với Điện Biên Phủ, Pháp đã huy động một lực lượng lớn quân viễn chinh. Cùng với đó là hàng loạt vũ khí tối tân cùng 2 sân bay hiện đại. Tập đoàn cứ điểm được bố trí thành 3 phân khu Bắc - Trung – Nam liên hoàn, hệ thống công sự và hàng rào dây thép gai kiên cố.

Thực hiện quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, bộ phận tham mưu đã đề nghị phương án “Đánh nhanh, thắng nhanh”. Đây là chiến lược nhằm tranh thủ khi địch vừa tăng cường lực lượng, đứng chân chưa vững, ta tập trung quân lực tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch trong 3 đêm 2 ngày.

Đại tướng Vi Quốc Thanh - Trưởng phái đoàn quân sự Trung Quốc khuyên ta: Nếu không đánh sớm, nay mai địch tăng cường thêm quân và củng cố công sự thì cuối cùng không còn điều kiện công kích quân địch nữa.

Để chuẩn bị và bảo đảm cho thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã huy động hàng chục vạn dân công, thanh niên xung phong. Lực lượng này ngày đêm vượt đèo cao, núi dốc vận chuyển lương thực, vũ khí mở đường đến các trận địa. Hàng chục khẩu pháo các loại và hàng vạn bộ đội đã bí mật vào vị trí tập kết, sẵn sàng chờ lệnh khai hỏa vào 17 giờ ngày 25/1/1954.

Lán ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Mường Phăng. Ảnh: tư liệu
Lán ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Mường Phăng. Ảnh: tư liệu

Cuối tháng 12/1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và Bác Hồ tin tưởng giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi lên đường ra mặt trận, Đại tướng đã đến chào Bác Hồ.

Bác Hồ hỏi Đại tướng: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường, có gì trở ngại không?”. Đại tướng trả lời: “Các đồng chí Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị đều đã có mặt trên đó. Sẽ tổ chức cơ quan tiền phương của Bộ tư lệnh để chỉ đạo chiến trường toàn quốc, kể cả bộ đội tình nguyện ở Lào và Campuchia. Anh Nguyễn Chí Thanh và anh Văn Tiến Dũng ở lại khu căn cứ, phụ trách mặt trận đồng bằng Bắc bộ. Chỉ trở ngại là ở xa có vấn đề quan trọng và cấp thiết, khó xin ý kiến của Bác và Bộ chính trị”.

Nghe vậy, Bác Hồ nói với Đại tướng: “Tổng tư lệnh ra mặt trận, tướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau”. Chia tay Đại tướng, Bác Hồ căn dặn: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. 

Mường Phăng (Điện Biên): Nơi ghi dấu quyết định khó khăn nhất của vị tổng chỉ huy  ảnh 2

Quyết định khó khăn nhất

Mọi công việc chuẩn bị cho trận đánh theo phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” đã hoàn tất. Nhưng trước ngày nổ súng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận thấy địch không ngừng củng cố công sự, không còn ở thế phòng ngự như ban đầu.

Suy xét kỹ lưỡng tình hình, Đại tướng cho rằng có 3 khó khăn lớn. Thứ nhất: Bộ đội chủ lực của ta đến nay chỉ tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường có công sự vững chắc, nhưng cũng có những trận không thành công, bộ đội thương vong nhiều.

Hai là: Trận này tuy ta không có máy bay, xe tăng, nhưng đánh hiệp đồng binh chủng bộ binh - pháo binh với quy mô lớn đầu tiên mà lại chưa qua diễn tập.

Ba là: Bộ đội ta từ trước tới nay chỉ quen tác chiến ban đêm, chủ lực của ta chưa có kinh nghiệm tấn công ban ngày trên địa bàn bằng phẳng với kẻ địch có ưu thế về máy bay, pháo binh, xe tăng, trận đánh lại diễn ra trên bình diện với chiều dài khoảng 18km và rộng từ 6 -7km.

Mặc dù mấy vạn quân đã dàn trận, đạn đã lên nòng, sẵn sàng dội lửa vào kẻ thù vào giờ ấn định, nhưng Đại tướng quyết định dừng lại cho lui quân về vị trí tập kết, kéo pháo ra để chuẩn bị trận địa đánh theo phương án mới.

Trao đổi với Đại tướng Vi Quốc Thanh - Trưởng phái đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc về quyết định của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: Ý định của tôi là hoãn cuộc tấn công ngay buổi chiều nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp quan sát, chỉ đạo chiến dịch. Ảnh: tư liệu
Đại tướng Võ Nguyên Giáp quan sát, chỉ đạo chiến dịch. Ảnh: tư liệu

Với cách đánh này, quân ta sẽ đánh dần từng bước, tiêu diệt từng bộ phận quân địch theo lối “bóc vỏ”, dồn địch vào tình thế ngày càng bị động, khốn quẫn để tiêu diệt chúng.

Quyết định của Đại tướng được Bác Hồ và Bộ Chính trị nhất trí và tiếp tục động viên hậu phương đem toàn lực chi viện cho tiền tuyến. Thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” là một quyết định mang tính lịch sử. Điều đó đã chứng minh tài năng của một vị tướng quân sự đầy bản lĩnh, kinh nghiệm cũng như bản chất nhân văn.

Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố bậc nhất của địch (Him Lam và Độc Lập). Sau đó làm tan rã thêm một tiểu đoàn và tiêu diệt cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh.

Ngày 30/3/1954, ta mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía đông của phân khu trung tâm. Ta tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông, củng cố từ trên đánh xuống, tạo thêm điều kiện chia cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.

Ngày 1/5, ta mở đợt tiến công thứ ba lần lượt đánh chiếm những cứ điểm còn lại ở phía Đông và phía Tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của địch.

Ngày 7/5/1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở chỉ huy địch. Tướng De Castries và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống.

Sau này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói rằng: Đó là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi.

Tướng Vương Thừa Vũ nhận xét về quyết định này: “Nếu theo cách đánh cũ, thì cuộc kháng chiến chống Pháp có thể bị kéo dài thêm tới 10 năm”. 

Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ. Ảnh: tư liệu
Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ. Ảnh: tư liệu

Vẹn nguyên Mường Phăng

Chiến dịch Điện Biên Phủ được xem là cuộc tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là một chiến công vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Nằm trên địa bàn xã Mường Phăng (TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên), Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ là địa điểm thứ 3 và là địa điểm cuối cùng đặt cơ quan đầu não của quân đội ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tại nơi này, bằng tài thao lược quân sự của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra những quyết sách đúng đắn để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Trải qua 67 năm, Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn được gìn giữ, bảo tồn vẹn nguyên, là biểu tượng của trí tuệ quân sự và khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam.

Năm tháng qua đi, vùng căn cứ địa cách mạng Mường Phăng cũng đã khoác lên mình “màu áo” mới, đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc ở các bản làng vùng cao nơi đây đã đổi thay.

Người Mường Phăng nói rằng, Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ được xây dựng dọc theo con suối nhỏ dưới chân núi Pú Đồn. Tất cả ẩn dưới tán rừng đại ngàn, được bố trí thành một hệ thống liên hoàn, bao bọc trước sau, có hầm hào, lán trại thuận tiện, phù hợp với tốc độ làm việc khẩn trương, vừa đảm bảo bí mật, an toàn tuyệt đối.

Xét về phương diện địa lý, Sở Chỉ huy Chiến dịch cách Trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của địch ở thung lũng Mường Thanh gần 20km theo đường chim bay và gần 40km đường đi bộ. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy Chiến dịch của quân đội ta đã đóng chân tại đây 105 ngày, từ ngày 31/1/1954 đến ngày 15/5/1954.

Trước đó, địa điểm thứ nhất của Sở Chỉ huy đặt tại hang Thẩm Púa (xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên) trong thời gian 32 ngày, từ ngày 17/12/1953 đến 17/1/1954. Địa điểm thứ 2 đặt tại bản Huổi He (xã Nà Tấu, nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ) trong thời gian 13 ngày, từ ngày 18/1/1954 đến 30/1/1954.

Theo anh Lò Văn Ánh, nhân viên Tổ quản lý bảo vệ di tích, lán làm việc của các cơ quan trong Sở Chỉ huy là những lán nhỏ giấu mình dưới tán cây rừng nguyên sinh. Dưới nền của các lán là những căn hầm nhỏ, trên nắp hầm lát những cây gỗ tròn chắc chắn để đề phòng máy bay hoặc pháo của địch bắn tới.

Nằm sâu trong Sở Chỉ huy là lán làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lán có diện tích 18m2 được làm bằng vật liệu khai thác tại chỗ. Bên ngoài liếp nứa của lán được che thêm những tấm cỏ gianh để tránh gió lùa và giấu bớt ánh sáng về đêm.

Từ lán của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thông sang lán của Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái là đường hầm xuyên núi dài 69m. Hầm cao 1,7m và rộng từ 1 - 3m, giữa hầm có một phòng họp. Hầm xuyên núi là công trình lớn nhất ở Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ do Trung đội Công binh thực hiện và hoàn thành trong 28 ngày đêm liên tục.

67 năm trôi qua, di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ được gìn giữ, bảo vệ nguyên vẹn và trở thành Di tích cấp quốc gia đặc biệt, mà mỗi người dân Việt Nam cũng đều muốn đến để tham quan, tìm hiểu về lịch sử cũng như trận chiến thần thánh của dân tộc.

Nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Peter MacDonald viết: “Điều làm Điện Biên Phủ nổi tiếng chính là ở cách đánh, ở tiến trình phát triển cuộc chiến cũng như kết cục và những hệ quả mà nó dẫn đến. Tất cả những điều đó đã khiến Điện Biên Phủ trở thành trận đánh quyết định của mọi thời đại và đưa tên tuổi Võ Nguyên Giáp vào sử sách”.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ