Đây được xem là bước tiến quan trọng, tạo điều kiện để nghiên cứu sinh yên tâm học tập và theo đuổi con đường nghiên cứu chuyên sâu.
Nâng sức hút đào tạo tiến sĩ
GS.TS Nguyễn Tiến Thảo - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT) cho biết, chính sách này nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ trong bối cảnh yêu cầu về nhân lực trình độ cao ngày càng tăng. Theo ông, chất lượng đào tạo tiến sĩ không chỉ phụ thuộc vào chương trình, đội ngũ giảng viên hay điều kiện nghiên cứu, mà còn phụ thuộc lớn vào thời gian toàn tâm toàn ý nghiên cứu và mức độ hỗ trợ tài chính dành cho nghiên cứu sinh.
“Việc cấp học bổng toàn phần giúp nghiên cứu sinh an tâm học tập, tập trung hoàn thành luận án đúng tiến độ; đồng thời góp phần tạo sức cạnh tranh, thu hút người học quốc tế đến nghiên cứu tại Việt Nam”, GS.TS Nguyễn Tiến Thảo nhấn mạnh.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, mỗi năm các cơ sở giáo dục đại học có khoảng 5.000 - 7.000 chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ, nhưng tỷ lệ tuyển sinh thực tế chỉ đạt dưới 50%. Hiện nay, học viên sau đại học, trong đó có nghiên cứu sinh vẫn phải nộp học phí theo quy định của từng trường; mức trần do Chính phủ quy định. Với bậc tiến sĩ, học phí bằng 2,5 lần so với trình độ đại học. Tại các cơ sở chưa tự chủ, học phí tiến sĩ dao động từ 3,8 đến gần 7,8 triệu đồng một tháng, trong khi chương trình đào tạo thường kéo dài 4-5 năm.
Chính sách học bổng toàn phần nếu được thông qua sẽ gỡ bỏ rào cản tài chính - một trong những nguyên nhân khiến chỉ tiêu tiến sĩ nhiều năm liền không tuyển đủ - đồng thời góp phần xây dựng đội ngũ nhân lực nghiên cứu trình độ cao cho đất nước.
Tán thành với đề xuất cấp học bổng, hỗ trợ học phí và sinh hoạt phí cho nghiên cứu sinh theo học tiến sĩ toàn thời gian, ông Hoàng Văn Cường - đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội cho rằng, chính sách này sẽ tạo điều kiện để nghiên cứu sinh tập trung cho học tập và nghiên cứu; từ đó hình thành những công trình khoa học có chất lượng.
Tuy nhiên, theo ông Cường, mỗi luận án tiến sĩ dù được đầu tư tốt đến đâu vẫn chỉ là một phần việc nhỏ, mang tính rời rạc, chưa tạo ra sản phẩm khoa học hoàn chỉnh có thể ứng dụng ngay. Điều đó xuất phát từ việc thiếu một “tổng công trình sư” thiết kế nhiệm vụ nghiên cứu tổng thể, phân tách thành các phần việc nhỏ và giao cho từng nghiên cứu sinh thực hiện. Nếu không có sự phân công và kết nối này, các luận án khó có thể ghép lại thành một sản phẩm lớn, có giá trị thực tiễn.
Đổi mới cơ chế để nâng chất lượng luận án
Từ thực tế đó, ông Cường đề nghị Nhà nước không cấp kinh phí trực tiếp cho từng nghiên cứu sinh, mà cấp kinh phí đặt hàng nghiên cứu trọng điểm cho các cơ sở đào tạo tiến sĩ. Các cơ sở sẽ chịu trách nhiệm lựa chọn nghiên cứu sinh phù hợp để thực hiện từng hạng mục trong nhiệm vụ nghiên cứu mà Nhà nước giao.
Theo cơ chế này, đơn vị nghiên cứu trả học bổng và hỗ trợ học phí cho nghiên cứu sinh bằng nguồn kinh phí nhiệm vụ khoa học, giúp gắn quá trình đào tạo với yêu cầu nghiên cứu thực tiễn, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm khoa học sau đào tạo.
Đồng quan điểm, bà Lý Tiết Hạnh - đại biểu Quốc hội đoàn tỉnh Gia Lai đề xuất quan tâm hơn tới việc lựa chọn, giao nhiệm vụ và sử dụng các đề tài nghiên cứu ở trình độ tiến sĩ trong và ngoài nước.
Bà cho rằng, để hoàn thành một công trình nghiên cứu, các nghiên cứu sinh phải đầu tư rất nhiều thời gian, công sức và kinh phí. Những công trình này thực chất đều có giá trị học thuật và giá trị ứng dụng nhất định. Nếu không được xem như nguồn vốn quý và không được khai thác hiệu quả, đó sẽ là sự lãng phí lớn về chất xám.
Từ nhận định này, bà Hạnh bày tỏ sự ủng hộ đối với chính sách xây dựng chương trình trọng điểm quốc gia về đào tạo tiến sĩ toàn thời gian, được quy định tại khoản 2 Điều 5 dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) về hỗ trợ người học và phát triển nhân lực trình độ cao. Bà đề nghị Chính phủ tính toán kỹ lưỡng, thiết kế cơ chế phù hợp để việc triển khai chương trình đạt hiệu quả thực chất.
Theo đại biểu Quốc hội đoàn Gia Lai, đội ngũ nhà giáo là lực lượng trí thức giữ vai trò đặc biệt trong xã hội, đảm nhiệm sứ mệnh “dạy chữ, dạy người”. Khi khâu tuyển chọn được thực hiện nghiêm túc, quá trình đào tạo được bảo đảm chất lượng, vị thế của người thầy sẽ được khẳng định và trả về đúng giá trị vốn có. Đây cũng là nền tảng quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển dân trí và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Từ dự thảo Nghị quyết của Quốc hội nhằm thể chế hóa Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị, đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Tuyết Nga (đoàn Quảng Trị) cho rằng, dự thảo đã đề cập nhiều chính sách vượt trội, phù hợp tinh thần Nghị quyết 71 như: cấp học bổng cho nghiên cứu sinh tiến sĩ, đầu tư hạ tầng số và hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tuy vậy, theo đại biểu, hồ sơ nghị quyết vẫn thiếu “những con số biết nói”, chưa làm rõ nguồn lực thực hiện cũng như chưa xác định cụ thể cơ chế và lộ trình triển khai. Những khoảng trống này có thể dễ dẫn tới lúng túng khi tổ chức thực hiện, đặc biệt trong bối cảnh nhiều chính sách đổi mới về giáo dục - đào tạo đòi hỏi nguồn lực lớn và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành.
Đại biểu bày tỏ kỳ vọng vào nghị quyết mới nhưng đồng thời lo ngại nếu không hoàn thiện từ giai đoạn lập chính sách, quá trình triển khai sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí làm giảm hiệu quả của các chủ trương lớn mà Nghị quyết 71 đặt ra.
Hiện, nghiên cứu sinh các chuyên ngành như: Tâm thần, giải phẫu bệnh, pháp y, pháp y tâm thần, truyền nhiễm và hồi sức cấp cứu tại các trường công được miễn học phí. Ngoài ra, một số trường có chính sách cấp học bổng cho nghiên cứu sinh, hoặc hỗ trợ chi phí thông qua các hoạt động trợ giảng, nghiên cứu.
Trong khi đó, nhiều nước như: Mỹ, Hàn Quốc, Singapore, nghiên cứu sinh không những được miễn học phí mà còn được cấp học bổng với mức đủ sinh hoạt, hoàn thiện luận án, nhận lương khi trợ giảng hoặc nghiên cứu cùng người hướng dẫn.