Vậy nên, việc siết chặt đào tạo tiến sĩ trong bối cảnh này là cần thiết nhằm chấn chỉnh toàn diện, nâng cao chất lượng đào tạo.
Giảm quy mô, yếu chất lượng
Theo số liệu thống kê của Bộ GD&ĐT, năm 2021, quy mô đào tạo tiến sĩ của Việt Nam khoảng 12.000 người. So với các nước trong khu vực, tỷ lệ này rất thấp: Chưa bằng 1/3 so với Malaysia và Thái Lan, bằng một nửa Singapore và chỉ bằng 1/9 mức trung bình của 38 nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).
Báo cáo thường niên năm 2023 của Đại học Quốc gia TPHCM cho thấy thực trạng: quy mô đào tạo tiến sĩ tại các trường thành viên liên tục giảm trong giai đoạn 2019 - 2023. Nếu năm 2019 toàn hệ thống có 1.178 nghiên cứu sinh thì đến năm 2023, con số này chỉ còn 995. Tính đến ngày 30/11/2023, số lượng tuyển sinh mới sau đại học là 2.257 người, trong đó chỉ có… 322 là nghiên cứu sinh.
Đây không phải là hiện tượng mới. Tình trạng giảm sút trong tuyển sinh sau đại học tại các trường thành viên của Đại học Quốc gia TPHCM đã kéo dài nhiều năm qua. Từ hơn 10.000 thí sinh dự tuyển vào năm 2012, con số này giảm mạnh còn 2.912 vào năm 2017, thấp hơn đáng kể so với 3.683 chỉ tiêu được giao.
Không chỉ riêng Đại học Quốc gia TPHCM, tình trạng “khát” nghiên cứu sinh cũng đang diễn ra ở nhiều cơ sở giáo dục đại học trên cả nước. Đơn cử, tại Trường Đại học Nha Trang, trong vòng 5 năm (2019 - 2023), với 11 ngành đào tạo tiến sĩ, trường chỉ tuyển được 30 nghiên cứu sinh. Theo đề án tuyển sinh trình độ tiến sĩ của trường này năm 2025, trong giai đoạn 2020 - 2024, các ngành Khai thác thủy sản, Kỹ thuật cơ khí động lực, Kỹ thuật cơ khí, Kinh tế và Quản lý tài nguyên biển “trắng” nghiên cứu sinh trong một số năm.
Tại Đại học Cần Thơ, theo các đề án tuyển sinh trình độ tiến sĩ, chỉ tiêu năm 2024 là 181. Nhà trường tuyển sinh 2 đợt với kết quả trúng tuyển là 78, đạt hơn 43%. Ngành Nuôi trồng thủy sản, Môi trường đất và nước, Chăn nuôi không tuyển được nghiên cứu sinh. Một năm trước đó, tỷ lệ tuyển sinh cũng chỉ đạt hơn 41%.
Theo số liệu của Bộ GD&ĐT, tuyển sinh trình độ sau đại học trong nước đang giảm đáng kể. Năm học 2019 - 2020, tổng chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ là 5.111 nhưng chỉ có 1.274 người trúng tuyển (đạt 24,93%). Năm học 2020 - 2021, tổng chỉ tiêu là 5.056, số người trúng tuyển tăng lên 1.735 (đạt 34,32%).
Đáng chú ý, dù số nghiên cứu sinh tuyển mới đang có chiều hướng tăng, nhưng chưa năm nào đạt được 50% tổng chỉ tiêu. Năm học 2023 - 2024, cả nước tuyển được gần 3.400 nghiên cứu sinh, chỉ tương đương 47% chỉ tiêu.

Số lượng thấp, phân tán nhiều nơi
Nhiều chuyên gia đại học lo ngại rằng, số lượng người học tiến sĩ quá thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo đại học và sự phát triển của khoa học - công nghệ trong nước.
Một PGS thuộc Đại học Quốc gia TPHCM chỉ ra rằng, hiện nay ngày càng ít người chọn con đường nghiên cứu sinh vì nhiều lý do: ở khối kỹ thuật - công nghệ, người có năng lực thường lựa chọn du học thay vì học trong nước; quá trình làm nghiên cứu sinh dài, vất vả, tốn kém và đòi hỏi sự kiên trì, điều không phải ai cũng đáp ứng được.
Mặt khác, yêu cầu đầu vào và đầu ra của chương trình tiến sĩ ngày càng cao trong khi phần lớn nghiên cứu sinh phải vừa đi làm vừa học, gây ra áp lực lớn. Với sinh viên tốt nghiệp cử nhân hoặc kỹ sư trong các lĩnh vực kỹ thuật, việc có một công việc tốt và thu nhập ổn định thường khiến họ không mặn mà với việc học lên cao.
Một số chuyên gia nhìn nhận, dù chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ vẫn thiếu người học nhưng chất lượng đào tạo hiện nay lại chưa đạt kỳ vọng. Một trong những nguyên nhân lớn là sự phân tán nguồn lực.
Tính đến năm 2022, cả nước có 196 cơ sở đào tạo được phép đào tạo trình độ tiến sĩ, trong đó có 157 cơ sở giáo dục đại học và 39 viện nghiên cứu, trường của tổ chức chính trị, lực lượng vũ trang và trường của bộ, ngành. Nhiều cơ sở đào tạo tiến sĩ, song chất lượng không đồng đều, quy mô đào tạo nhỏ, thiếu tập trung.
Thêm vào đó, nhiều luận án tiến sĩ bị đánh giá là kém chất lượng. Nhiều chương trình đào tạo vẫn áp dụng tư tưởng “có vào thì sẽ có ra”, khiến chất lượng đầu ra chưa thực sự được đảm bảo.
Không ít chuyên gia giáo dục cảnh báo: nếu giữ nguyên tình trạng hiện tại, trong những năm tới, Việt Nam khó có thể vươn tầm trở thành quốc gia có nền đại học nghiên cứu đẳng cấp quốc tế. Bởi chính các nghiên cứu sinh mới là lực lượng chủ lực tạo ra công trình khoa học và làm nên thương hiệu nghiên cứu của các trường đại học.

Siết chặt để nâng chất lượng
Trước thực trạng tuyển sinh khó khăn, chất lượng đào tạo chưa đồng đều và những bất cập trong chính sách, cơ chế tài chính, yêu cầu cải tổ mạnh mẽ đối với đào tạo tiến sĩ tại Việt Nam đang trở nên cấp thiết.
Tại buổi tọa đàm góp ý cho dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) do Bộ GD&ĐT tổ chức đầu tháng 7/2025 tại TPHCM, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn nhấn mạnh: thời gian tới, việc đào tạo tiến sĩ sẽ được siết chặt hơn nhằm nâng cao chất lượng.
Theo dự thảo luật mới, các cơ sở giáo dục đại học được tự chủ đào tạo trong phạm vi được cấp phép. Tuy nhiên, một số chương trình sẽ phải do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT phê duyệt, bao gồm: đào tạo tiến sĩ; đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe, pháp luật; các chương trình theo đơn đặt hàng của cơ quan có thẩm quyền hoặc đã từng bị đình chỉ và đang khắc phục vi phạm.
Hiện tại, theo quy định, các trường đại học đã đạt chuẩn kiểm định chất lượng chương trình ở bậc đại học và thạc sĩ có thể được mở ngành đào tạo tiến sĩ tương ứng. Tuy nhiên, điều này không áp dụng với các ngành thuộc khối sức khỏe, giáo viên, quốc phòng và an ninh - những lĩnh vực yêu cầu kiểm soát đặc biệt.
Theo Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn, chúng ta có quá nhiều trường đại học được phép đào tạo tiến sĩ. Thời gian qua, Bộ GD&ĐT đã nhận được nhiều ý kiến phản ánh từ đại biểu Quốc hội và người dân về chất lượng đào tạo tiến sĩ. Vì vậy, việc quy hoạch lại hệ thống là cần thiết. Trong tương lai, số lượng cơ sở được cấp quyền đào tạo tiến sĩ sẽ được thu hẹp và nâng cao chất lượng.
Nhiều chuyên gia đồng tình rằng, cần thắt chặt quy trình tuyển sinh và đào tạo ở bậc tiến sĩ, đồng thời tập trung nguồn lực vào các cơ sở đào tạo có thực lực. TS Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam nhận định, thời gian qua, có hiện tượng dễ dãi trong việc mở và triển khai các chương trình đào tạo tiến sĩ ở nhiều nơi.
“Quá nhiều cơ sở cùng tham gia nhưng lại không đủ nguồn lực, dẫn đến chất lượng không đồng đều,” ông nhận định và chỉ ra hàng loạt bất cập đang tồn tại trong công tác đào tạo tiến sĩ hiện nay. Nhiều cơ sở đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu tối thiểu về điều kiện vật chất phục vụ nghiên cứu; đội ngũ cán bộ hướng dẫn khoa học thiếu và yếu, thậm chí phải thuê cộng tác viên từ bên ngoài để đảm nhiệm vai trò hướng dẫn nghiên cứu sinh.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam lưu ý, tại các nền giáo dục đại học tiên tiến trên thế giới, không phải trường đại học nào cũng đủ điều kiện đào tạo tiến sĩ. Việc này đòi hỏi nhà trường phải có truyền thống nghiên cứu lâu năm, đội ngũ giảng viên mạnh, cơ sở vật chất đầy đủ, năng lực công bố quốc tế và chuyển giao công nghệ.
“Phải là những đại học đạt đến đẳng cấp nhất định thì mới có thể đảm đương nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ. Trong khi ở nước ta, không ít trường đại học còn rất non trẻ, thậm chí xuất phát từ một trường đào tạo nghề, chỉ sau vài năm đã vội mở chương trình đào tạo tiến sĩ”, TS Khuyến nêu quan điểm.

Linh hoạt trong quy định chương trình
PGS.TS Bùi Anh Thủy - Trưởng khoa Luật, Trường Đại học Văn Lang, cho rằng việc cải tiến để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ là cần thiết, song phải được thực hiện với lộ trình phù hợp, trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học.
Thế giới đã nhìn nhận rằng để giáo dục đại học phát triển bền vững, quản trị đại học phải là trụ cột trong vận hành hệ thống. Việc gia tăng quyền tự chủ đại học, đi kèm với nâng cao trách nhiệm giải trình trong học thuật, chính là chìa khóa để chuyển đổi nền giáo dục đại học của mỗi quốc gia.
Tại Việt Nam, trong vài thập niên trở lại đây, pháp luật đã ghi nhận và từng bước trao quyền tự chủ cho các trường đại học. Cụ thể, các cơ sở đào tạo cần được toàn quyền thiết kế chương trình đào tạo dựa trên chuẩn chương trình chung do Nhà nước ban hành, nhưng vẫn phù hợp với năng lực, định hướng phát triển, triết lý giáo dục và mục tiêu riêng của từng đơn vị. Do đó, nếu Nhà nước quy định chi tiết chương trình đào tạo đến từng lĩnh vực, nhóm ngành hoặc ngành cụ thể là điều khó áp dụng đồng bộ.
“Tự chủ đại học không đồng nghĩa với việc đảm bảo chắc chắn chất lượng, nhưng đó là tiền đề nền tảng để nuôi dưỡng các yếu tố cốt lõi của giáo dục đại học như: năng lực và thái độ của người học, phẩm chất và chuyên môn của giảng viên, hiệu quả quản trị đại học, cũng như niềm tin xã hội vào sản phẩm đào tạo”, PGS Bùi Anh Thủy phân tích.
Tại tọa đàm góp ý cho dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), PGS.TS Nguyễn Đức Trung - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngân hàng TPHCM, cho rằng hiện nay vẫn còn nhiều bất cập trong quy trình mở ngành đào tạo trình độ sau đại học, đặc biệt là ở bậc tiến sĩ.
Quy định hiện hành yêu cầu một cơ sở giáo dục đại học muốn mở ngành đào tạo thạc sĩ thì trước đó phải có chương trình đào tạo đại học tương ứng. Tương tự, nếu muốn mở ngành đào tạo tiến sĩ thì phải có sẵn chương trình thạc sĩ cùng ngành. Cách tiếp cận này đang trở thành rào cản lớn đối với việc phát triển các chương trình đào tạo nhân lực chất lượng cao.
“Ở nhiều đại học nước ngoài, số lượng chương trình đào tạo thạc sĩ còn nhiều hơn cả đại học. Nghĩa là, họ không bắt buộc phải có bậc đào tạo thấp hơn mới được phép mở bậc cao hơn,” ông Trung dẫn chứng và cho rằng, nếu tiếp tục giữ quy định cứng nhắc như hiện tại thì các trường sẽ phải mất đến 7 - 8 năm để hoàn thiện đủ các bậc đào tạo trước khi có thể triển khai chương trình tiến sĩ, khiến việc phát triển nguồn nhân lực trình độ cao cho các lĩnh vực mới gặp nhiều trở ngại.
Bộ GD&ĐT nên xem xét cơ chế linh hoạt hơn, cho phép các trường được mở chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và chương trình đào tạo.
Về lâu dài, hệ thống đào tạo và văn bằng cần được phân định rõ ràng giữa hai loại tiến sĩ: Tiến sĩ theo hướng nghiên cứu và tiến sĩ theo hướng ứng dụng. Việt Nam có thể tham khảo một số mô hình tại các bang của Mỹ trong quá trình quy hoạch lại hệ thống đại học.
Cụ thể, cần phân loại rõ các cơ sở giáo dục đại học theo định hướng: trường đại học có đào tạo tiến sĩ và trường không đào tạo tiến sĩ. Việc phân tầng này sẽ giúp xây dựng chiến lược phát triển phù hợp, tránh dàn trải nguồn lực và đảm bảo chất lượng đào tạo. - TS Lê Viết Khuyến (Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam)