Xác định đúng vị trí, vai trò của GD-ĐT và xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách
Việc cần làm đầu tiên, theo GS.TS Nguyễn Văn Minh là xác định đúng vị trí, vai trò của GD-ĐT, xây dựng đầy đủ và đồng bộ thể chế, chính sách phát triển GD-ĐT.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ giáo dục là nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam, một nền giáo dục vì con người, cho con người và hướng tới việc xây dựng con người mới.
Đảng ta đã xác định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội”.
Hơn 10 năm qua, trên cơ sở tinh thần đổi mới đó, Nhà nước và Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển giáo dục đất nước sát với chín nhiệm vụ, giải pháp như trong Nghị quyết số 29 đã đề ra và đạt kết quả đáng ghi nhận.
Tuy vậy, có những nội dung, việc thể chế hóa còn chậm. Đặc biệt, việc nhận thức về “quốc sách hàng đầu” không phải đã được đồng bộ ở mọi cấp cấp độ. Điều đó đã tác động không nhỏ đến vận hành hệ thống.
Quyết tâm chính trị cần phải được nhận thức đầy đủ, toàn diện từ cấp độ vĩ mô đến cơ sở, đến từng con người cụ thể; phải có kế hoạch, giải pháp triển khai, có sơ kết, rút kinh nghiệm và chỉ ra những nguyên nhân, bài học kinh nghiệm một cách nghiêm túc để tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn.
Thành tích là đáng ghi nhận, nhưng nếu không nhìn trực diện vào các hạn chế, yếu kém thì khó bề tiến bộ. Khi chưa cải thiện về thu nhập, về môi trường và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thì khó nói đến nâng cao chất lượng giáo dục.
Đối với hệ thống giáo dục đại học: Đây là cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sứ mạng của các đại học phải gắn với Chiến lược phát triển đất nước.
Do đó, một quy hoạch có tính hệ thống cần được đặt ra trên cơ sở dự báo nguồn nhân lực cần thiết cho xây dựng và phát triển đất nước. Cần có một chiến lược đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho một số đại học mang tính dẫn dắt, tránh việc “dàn hàng ngang” cùng tiến khi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước còn khó khăn.
Kêu gọi đầu tư về giáo dục đại học là cần thiết, tạo nên những nhân tố mới cũng như thúc đẩy đại học trong nước phát triển, nhưng điều đó cần cân nhắc phù hợp với chiến lược chung; tránh sự tùy tiện và thiếu đồng bộ.
Đối với hệ thống giáo dục phổ thông: Cần đảm bảo về đội ngũ, cơ sở vật chất cho công tác giáo dục, dạy và học; nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Cần đặt nhiệm vụ kiên cố hóa trường học, nhà công vụ như là một nhiệm vụ chính trị quan trọng và có lộ trình cụ thể. Trong thời đại ngày nay, càng cần chú trọng nhiệm vụ này, vì khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ giữa các vùng miền. Đây cũng là cơ sở trong việc tiếp cận giáo dục bình đẳng, nâng cao dân trí, mang tính ưu việt của chế độ; bảo đảm 'ai ai cũng được học hành” như mong muốn của Bác.
Đối với giáo dục thường xuyên: Nên chăng, có một quan niệm mới về các cơ sở giáo dục thường xuyên, đó không chỉ là nơi nâng cao trình độ học vấn, trình độ văn hóa mà còn là nơi để mỗi người có khả năng thích ứng chuyển đổi nghề nghiệp thông qua cơ hội học tập suốt đời.
Với hệ thống cao đẳng và dạy nghề: Sự chia tách về mặt quản lý Nhà nước hệ thống cao đẳng ít nhiều tạo nên những cản trở trong việc liên thông. Việc học tập suốt đời là nhu cầu thiết thân đối với mỗi người trong mọi thời đại. Ở đây, không đặt nặng vấn đề bằng cấp mà muốn nói đến trình độ và năng lực chuyên môn.
Thời đại thay đổi, đòi hỏi năng lực của mỗi người phải đạt được yêu cầu công việc và việc học tập có tính hệ thống là yêu cầu cần thiết. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, hệ thống cao đẳng cộng đồng như là cầu nối của học sinh phổ thông với cơ hội việc làm và có thể là bước chuẩn bị cho bước tiếp theo ở trình độ cao hơn sát với yêu cầu thực tiễn. Nên chăng, cần có tư duy lại hệ thống này.
Đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp của GD-ĐT
Nội dung này, GS.TS Nguyễn Văn Minh dẫn bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi giáo viên, học sinh, cán bộ và thanh niên ngày 31/10/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Đối với Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.
Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.
Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công.
Lời căn dặn có tính hệ thống này, cho đến này vẫn mang tính thời đại.
Người phân tích: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”.
Người nhấn mạnh, muốn học tập có kết quả tốt thì phải có phương pháp giáo dục đúng đắn. Mục đích là làm cho người học có thái độ học tập, rèn luyện tích cực và tự giác, có như vậy việc tiếp thu nội dung giáo dục mới nhanh chóng, hiệu quả, đạt mục tiêu.
Trong quá trình đổi mới giáo dục, những nội hàm đề cập ở trên đã có những cải tiến, chuyển biến, nhưng trước yêu cầu của thời đại, chúng ta vẫn chậm, nhất là hệ thống phổ thông.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng việc chuẩn bị điều kiện cho việc thực hiện còn có những bất cập, cần có những giải pháp thiết thực và hữu hiệu hơn.
Thực hiện giáo dục toàn diện và học tập suốt đời
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Mỗi công dân Việt Nam cần “Biết ham học... Biết rồi, ta học thêm. Ngoài ra, còn biết bao điều cần học. Việc thế giới rất nhiều, học không bao giờ hết. Người có học mới có tiến bộ. Càng học càng tiến bộ”.
“Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự đào thải mình”. Vì vậy, mỗi người đều “phải biết tự động học tập”; “phải học nữa, học mãi trong khi đi làm việc”.
Theo GS.TS Nguyễn Văn Minh, lịch sử đã chứng minh rằng, các cuộc cách mạng công nghiệp ngày càng ngắn hơn, điều đó cũng tương ứng với việc từ phát minh đến sản phẩm.
Vấn đề hàm lượng chất xám, về kinh tế tri thức đang đặt ra nhiều vấn đề đối với chất lượng nguồn nhân lực. Do vậy, không có con đường nào khác là mỗi người phải tự học; Nhà nước có chính sách khuyến khích sự tự học.